Mới
hôm nào, cả thế giới còn bàng hoàng xúc động trước hình ảnh một em bé tỵ nạn mới
3 tuổi từ Syria trôi dạt vào bở biển Thổ Nhĩ Kỳ rồi nằm úp mặt trên bờ cát. Sự
kiện đó như giọt nước cuối cùng làm tràn ra sự thương cảm của người dân châu Âu
trước số phận bi thảm của hàng triệu người tị nạn chiến tranh. Thế là nước Đức,
rồi sau đó là một số nước khác rộng mở cánh tay, tấm lòng và hầu bao để đón
nhận hàng triệu người tỵ nạn. Nhưng rồi chẳng bao lâu sau, họ phải chịu những
hậu quả cay đắng và thảm khốc. Những cuộc thảm sát bằng một loại vũ khí mới
theo một phương thức mới khó có gì ngăn cản được: những chiếc xe tải - bình
thường như tất cả những chiếc xe khác, trừ đầu óc của kẻ lái xe - chạy hết tốc
lực, lao thẳng vào và cày nát một đám đông! Đó chính là những gì đã xảy ra ở
Nice, ngay vừa rồi lại lặp lại ở chợ Noel Berlin. Cũng vào dịp này năm ngoái, hàng
trăm cô gái Đức bị tấn công tình dục trong lúc họ đang vui mừng đón năm mới tại
một quảng trường ở Cologne và một số thành phố khác bởi những đám đông thanh
niên mà nhiều người trong đó lại vừa mới đến theo diện tị nạn. Bà thủ tướng
Angela Merkel, một chính trị gia lão luyện hẳn phải đã tính đến khả năng xảy ra
những chuyện như thế khi quyết định mở cửa nước Đức cho người tị nạn. Bà biết có thể vấp phải sự phản đối của dân,
các lực lượng đối lập, rủi ro cho sự nghiệp chính trị của mình. Nhưng có thể bà
cũng nghĩ đến những điều khủng khiếp - có lẽ không còn gì khủng khiếp hơn - mà
nước Đức đã gây ra cho loài người trong Thế Chiến 2. Và bà có thể đã nhìn thấy
một cơ hội để nước Đức làm một điều gì tốt đẹp cho loài người, cho dù bà có thể
mất ghế thủ tướng. Nhưng sau quá nhiều những điều tệ hại xảy ra, dân Đức và các
nước châu Âu khác bắt đầu hết kiên nhẫn với dân tị nạn. Họ bắt đầu quay sang
ủng hộ những xu hướng dân tộc chủ nghĩa, hẹp hòi, thậm chí là cực hữu. Có lẽ
cũng vì thế mà đa số dân Anh, đa phần là người lớn tuổi đã bỏ phiếu để ra khỏi
EU, để dần thoát ra khỏi những nghĩa vụ quốc tế. để tập trung vào vun đắp cho
nước Anh. Ở bên kia đại dương, một người phụ nữ khác - bà Hilary Clinton -
tưởng chừng như chắc chắn sẽ làm nên lịch sử khi trở thành nữ tổng thống đầu
tiên của nước Mỹ. Ấy thế mà sự bất ngờ nhất lại xảy ra: bà đã thua vì không
vượt qua được một người đàn ông, một kẻ phân biệt chủng tộc và coi thường phụ
nữ. Người phụ nữ chỉ mạnh hơn đàn ông khi họ có nhiều nữ tính, chứ không phải
cố để có nhiều nam tính hơn. Giá mà bà có ít nhiều nữ tính của Marilyn
Monroe thì có lẽ không phải chỉ nước Mỹ, mà cả thế giới sẽ bầu cho bà. Ở viễn đông
thì nước Trung Hoa vẫn ráo riết theo đuổi giấc mơ siêu cường. Họ tự tin thế vì
nhìn quanh khu vực thì hầu như không có nước nào đủ khả năng đối đầu với họ.
Châu Âu thì còn đang vướng bận những vấn đề của họ. Nước Nga to lớn đang gặp
nhiều khó khăn về kinh tế do cấm vận của Phương Tây nên họ cần TQ để giảm bớt
ảnh hưởng của Mỹ và Tây Âu. Chỉ còn lại Mỹ là cường quốc có thể đối đầu với TQ.
Nhưng Mỹ có ra tay ngăn chặn TQ hay không thì chưa rõ. Vị tổng thống vừa trúng
cử lại có vẻ không mặn mà với chính sách "xoay trục sang châu Á" của
vị tổng thống sắp mãn nhiệm. Có vẻ ông ta muốn giảm dần sự hiện diện và can
thiệp vào các nơi khác để tập trung quan tâm vào nước Mỹ để Make America Great Again - khẩu hiệu
tranh cử của ông ta - tạm dịch là "làm cho nước Mỹ lại vĩ đại trở lại".
Một vài nước Đông Nam Á đang tỏ ra ngả theo TQ vì yếu thế và/hoặc bị mua chuộc.
Các nước còn lại sẽ lâm vào một tình thế khó khăn hơn trước một TQ to lớn hùng
mạnh đang hung hăng bành trướng với quyết tâm nuốt trọn vùng biển Đông Nam Á. Ngoảnh
đi ngoảnh lại, một năm nữa lại sắp qua đi. Đêm nay ở khắp nơi trên thế giới
người ta sẽ lại bắn pháo hoa mừng năm mới, nâng cốc chúc nhau một năm mới tốt
đẹp hơn. Năm qua, cũng như nhiều năm trước, nhiều chuyện cả hay lẫn dở đã xảy
ra trên thế giới, trong mỗi gia đình, với mỗi con người. Nhưng rồi thì cũng vẫn
thế, nghĩa là mọi chuyện rồi sẽ qua đi, trôi vào dĩ vãng, vào lãng quên, để
nhường chỗ cho những chuyện mới hơn. Hôm qua trời Hà Nội xanh thẳm, rực sáng vui
tươi dưới nắng ấm, mát rượi trong làn gió lạnh phương bắc. Hôm nay trời lại xầm
xì buồn tẻ. Nhưng mai sẽ lại khác. Cuộc sống trên Trái Đất là một sự trình diễn
to lớn, lộn xộn và bất tận của Tạo Hóa. Con người từ xưa tới giờ thì cứ cố tìm
câu trả lời cho muôn vàn câu hỏi tại sao. Nhưng liệu có bao giờ con người hiểu
được Tạo Hóa không?
Thứ Bảy, 31 tháng 12, 2016
Thứ Sáu, 16 tháng 12, 2016
Một niềm tin
Khi Thế Chiến 2 kết thúc, cả bên thua lẫn bên thắng
đều kiệt quệ. Chỉ có nước Mỹ là hùng mạnh hơn lên do không bị tàn phá và do sản
xuất trong nước phát triển vượt bậc để phục vụ chiến tranh. Ở Bắc Việt Nam
khoảng cuối những năm 50 - đầu 60 có bài thơ sau:
Một tay xách bị
Đô-la
Tay bom nguyên
tử giơ ra dọa người
Lê la khắp vòm
trời kiếm chác
Thằng Mỹ đi buôn
nước hại dân
Lúc
đó Mỹ gần như là siêu cường duy nhất, "làm mưa làm gió" khắp thế
giới. Châu Mỹ La-tinh, vùng Ca-ri-bê được coi là sân sau của Mỹ. Nước nào chịu
thuần phục thì Mỹ để yên. Nếu chống lại thì Mỹ cho CIA lật đổ và thay vào đó
một chính phủ theo Mỹ. Cuba cho tới những năm 50 thế kỷ trước là nơi tư bản Mỹ
làm ăn với sự bảo trợ của chế độ độc tài thân Mỹ. Với thủ đô Habana có kiến
trúc thuộc địa lộng lẫy, Cuba là nơi lý tưởng cho dân Mỹ, nhất là giới nhà
giàu, tài phiệt, các ngôi sao giải trí, mafia sang ăn chơi ở những bãi biển nhiệt
đới, casino, vũ trường và hộp đêm. Trong khi đó, phần lớn dân Cuba sống trong
nghèo khổ. Cuba từng đấu tranh lâu dài trong thế kỷ 19 dưới sự lãnh đạo của
người anh hùng dân tộc Jose Marti, giành được độc lập từ thực dân Tây Ban Nha,
chỉ để rồi lại thoái hóa thành ra một "thuộc địa kiểu mới", một xứ
"nhà thổ" của Mỹ. Chàng trai trẻ Fidel Castro đã sớm nhận ra những
điều trớ trêu, cay đắng đó. Làm gì để xóa bỏ bất công xã hội? xóa bỏ cái lối
"người bóc lột người"? để tất cả mọi người có việc làm, có cơm ăn áo
mặc, có nhà ở, được học hành và chữa bệnh? để được sống có nhân phẩm con người?
Đó là những câu hỏi mà những thanh niên có lý tưởng nhân văn ở đâu cũng đều tự
hỏi mình. Ở đầu thế kỷ 20, họ tìm tòi những tư tưởng mới giải thích sự bất công
xã hội, quan sát những gì đang xảy ra trên giới. Thời đó, có lẽ ít ai giải
thích các vấn đề của xã hội loài người một cách thuyết phục hơn là Karl Marx.
Trong bộ sách đồ sộ Das Kapital mà
các nhà cách mạng Việt Nam tiền bối dịch là Tư
Bản, Marx giải thích sự bất công của xã hội loài người. Đó là do một số ít
người sở hữu được tư liệu sản xuất, như hầm mỏ, nhà máy, đất đai - gọi là tư bản - bóc lột lao động của đại đa số những
người không có tư liệu sản xuất như thợ mỏ, công nhân, nông dân - gọi là vô sản. Cách xóa bỏ sự bất công đó là vô sản ở tất cả các nước trên thế giới phải
đoàn kết lại để làm cách mạng, giành lấy chính quyền từ nhà nước tư bản. Sau
đó nhà nước vô sản sở hữu toàn bộ tư liệu sản xuất, thực hiện một nền kinh tế theo
kế hoạch do nhà nước chỉ huy và chia đều mọi lợi ích thu được cho toàn dân.
Theo tư tưởng đó, lãnh tụ của vô sản Nga là Lenin đã thực hiện thành công cuộc
Cách Mạng Tháng Mười Nga, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên là Liên
Bang Xô Viết. Nước Nga từ một nước nông nghiệp lạc hậu nhanh chóng trở thành
một siêu cường công nghiệp và quân sự, đánh bại âm mưu nô dịch thế giới của Đức
Quốc Xã. Tư tưởng Marx - Lenin, thực tế cách mạng Nga và nhà nước Liên Xô đã
trở thành nguồn cảm hứng to lớn cho những thanh niên có lý tưởng công bằng xã
hội chống lại áp bức bất công của tư bản và thực dân ở khắp nơi trên thế giới. Năm
1959, Fidel cùng các đồng chí của mình như Che Guevara làm cuộc cách mạng Cuba,
lật đổ chế độ độc tài thân Mỹ, đưa Cuba đi theo con đường cộng sản. Lý tưởng
của ông về một xã hội công bằng - ít nhất là về giáo dục và y tế - đã đạt được
những thành tựu xuất sắc được thế giới công nhận. Nhưng Cuba - cũng tất cả các
nước XHCN khác - đã gặp phải trở ngại hầu như không thể vượt qua về mặt kinh
tế. Nhưng có lẽ Fidel tin rằng khó khăn kinh tế của Cuba chủ yếu là do bị Mỹ
cấm vận, chứ không hẳn là lỗi của hệ thống. Kể cả sau khi các nước XHCN Đông Âu
sụp đổ hàng loạt, cuối cùng thì chính cả Liên Bang Xô Viết cũng sụp đổ vào năm
1991, Fidel dường như vẫn kiên trì đường lối của mình. Có lẽ không phải là vì
ông đã đi quá xa trên con đường lý tưởng và không thể quay lại? Phải chăng đối
với ông, từ bỏ CNXH để quay sang kinh tế thị trường, dù có lý giải thế nào và gọi
là gì đi nữa thì thực chất vẫn là theo tư bản, là đi ngược lại niềm tin của
mình? Chắc hẳn ông đã phải trăn trở lắm khi thấy cuộc sống của nhân dân mình
thiếu thốn đến cả thực phẩm và những đồ dùng thiết yếu hàng ngày, ở chen chúc trong
những căn nhà chật chội, cũ nát, không có nước. Ông hẳn phải hiểu rõ rằng nếu
từ bỏ con đường mình đã chọn để đi theo con đường tư bản thì đời sống của nhân
dân có thể sẽ khá lên. Nhưng Cuba cũng sẽ nhanh chóng trở lại như xưa, nghĩa là
sẽ lại là xứ ăn chơi đàng điếm cho người ngoại quốc, sẽ lại là xứ "nhà thổ",
mà lần này thì không chỉ cho Mỹ mà cho toàn thế giới. Phải chăng bởi vì ông là một người cộng sản có
niềm tin mạnh mẽ nhất? Nếu không thì
làm sao ông có thể trở thành một diễn giả hùng biện bậc nhất thế giới, có thể
nói rất lôi cuốn và liên tục nhiều giờ mà không dùng một tờ giấy viết sẵn nào? Là
lãnh đạo tối cao một nước đến nửa thế kỷ, ông đã có thể biến thành một thứ lãnh
tụ thần thánh cho hàng triệu người sùng bái lắm chứ? Ông đã có thể để cho dựng tượng
mình la liệt ở khắp mọi nơi, những tượng
đồng phơi những lối mòn, như nhà thơ Tố Hữu đã từng bóng gió ám chỉ những
bức tượng Mao ở TQ thời Cách mạng Văn Hóa ? Rồi là cho xuất bản những cuốn sách
chứa những lời răn dạy của mình trong mấy chục năm để toàn dân làm cẩm nang
giải quyết mọi vấn đề hay để tụng đọc như kinh thánh? Ấy là chưa nói còn có thể
tranh thủ vơ vét cho bản thân và gia đình hàng tỷ Đô-la gửi vào ngân hàng nước
ngoài phòng khi thất thế, về hưu hay tuổi già? Hoặc giả sắp xếp để cho con rồi
cháu "nối ngôi" mình mà làm vua đời này sang đời khác? Có thể Fidel
là một người mang chất cộng sản thuần khiết trong máu thịt nên ông không chấp
nhận những cái lối tha hóa của quyền lực với những biểu hiện như trên, những
thứ mà ông đã dành cả đời mình để chống lại vì chúng hoàn toàn đi ngược lại
niềm tin và nguyên tắc của ông. Hoặc giả
ông đã sống rất lâu, nhìn thấy bao cuộc "bể dâu", thăng trầm của bao
nhiêu nước và các nhà lãnh đạo - cộng sản và không cộng sản - suy ngẫm tỉnh táo,
không bị lú lẫn bởi quyền lực nên hẳn ông đã hiểu ra lẽ "vô thường"
của Phật. Chẳng có cách gì trong những cách trên có thể làm một ông vua, một vị
tổng thống, một vị lãnh tụ, v.v. thành người được dân "đời đời kính
yêu" và trở thành bất tử được. Stalin khi còn sống là lãnh tụ kính yêu của
dân Nga và cộng sản toàn thế giới. Khi mất, hàng triệu người đã khóc thương
ông. Nhưng rồi chẳng bao lâu sao, chính các đồng chí của ông đã lên án sự sùng
bái cá nhân ông, rồi dần dần công khai những tài liệu về việc trong thời gian
cầm quyền, ông đã cho bắt bớ, giam cầm, giết hại những người bất đồng chính
kiến trong đó có nhiều đồng chí của mình. Sự thật lịch sử về Fidel thế nào thì sớm
muộn rồi cũng sẽ được biết. Dù thế nào đi nữa thì Fidel là một trong những nhân
vật nổi bật nhất của lịch sử thế giới thế kỷ 20. Ông lớn hơn tầm cỡ của nước
Cuba nhỏ bé nhiều. Người ta có thể không ưa ông. Nhưng không ai có thể coi
thường ông. Suốt nửa thế kỷ, ông đối đầu siêu cường số 1 thế giới là Mỹ, nước
chỉ cách Cuba có 90 dặm. Suốt nửa thế kỷ đó, trải qua 10 đời tổng thống Mỹ, CIA
đã hàng trăm lần tiến hành mưu sát ông mà đều thất bại. Cuối năm 1946, trước
nguy cơ "ngàn cân treo sợi tóc" là đất nước vừa giành được độc lập lại
một lần nữa mất vào tay người Pháp, chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn
dân "thà hy sinh tất cả chứ nhất
định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ". Ngoài vũ khí chủ yếu
là tinh thần hy sinh vô bờ bến ấy ra, nước Việt Nam DCCH non trẻ, với quân đội
nhỏ bé, chưa qua huấn luyện, vũ khí ít ỏi thô sơ thì lấy gì mà chống lại được
đội quân viễn chinh nhà nghề của Pháp, được trang bị những vũ khí hiện đại nhất
của Mỹ thời ấy? Năm 1962, nước Cuba XHCN non trẻ cũng phải đối mặt với nguy cơ
một cuộc xâm lược toàn diện của Mỹ. Fidel Castro có ít lựa chọn lắm. Nếu đối
đầu tay đôi thì khả năng thắng được Mỹ là mỏng manh lắm. Vậy làm thế nào có thể
ngăn chặn được Mỹ? Có thể cũng trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn này mà Fidel đã
đi đến một quyết định lịch sử gây tranh cãi suốt nửa thế kỷ qua: cho phép Liên
Xô đưa tên lửa mang đầu đạn hạt nhân vào Cuba nhằm mục đích răn đe và ngăn chặn
cuộc xâm lược Cuba. Ông hẳn phải hiểu rõ lắm rằng nếu chẳng may mà cuộc đối đầu
hạt nhân xảy ra - mà lúc đó các tên lửa của cả hai bên đã sẵn sàng trên bệ
phóng rồi - thì nước Cuba sẽ bị xóa sạch khỏi bản đồ đầu tiên để mở đầu cho
cuộc chiến tranh hủy diệt toàn cầu bằng hạt nhân. Nếu không thì ông chỉ còn một
lựa chọn nữa: đầu hàng. Đó là điều mà ông không bao giờ chấp nhận. Đó có lẽ là
lý do mà khẩu hiệu Patria o Muerte - Tổ
Quốc hay là Chết là điều mà Fidel và nhiều người dân Cuba tâm niệm suốt
hàng chục năm qua. Cuối cùng, vào tháng
3 năm 2016, tổng thống Mỹ Obama có chuyến thăm lịch sử tới Cuba, chấm dứt cuộc
bao vây hơn nửa thế kỷ của Mỹ. Có người cho rằng chủ nghĩa cộng sản giống như
một tôn giáo của thế kỷ 20. Điều này có lẽ phần nào đúng. Hàng triệu công nhân,
nông dân và binh lính Nga năm 1917 đi theo Lenin làm cuộc cách mạng vô sản Nga chủ
yếu vì niềm tin vào lãnh tụ Lenin và một cuộc sống tốt đẹp hơn sau cách mạng. Cũng
tương tự như vậy đối với hàng triệu nông dân Trung Quốc khi họ đi theo Mao Trạch
Đông. Điều này có vẻ giống như việc các tín đồ Thiên Chúa Giáo theo Chúa Giê-su
vì tin rằng sẽ được lên thiên đàng, có cuộc sống sung sướng vĩnh cửu ở đó. Niềm
tin giản dị ấy có thể làm cho những người theo cách mạng thời kỳ còn chưa giành
được chính quyền chịu đựng khó khăn và hy sinh vô điều kiện cho cách mạng, giống
như tử vì đạo vậy. Đa số họ rất ít học, có khi còn chưa biết chữ. Ngay cả người
có học và có ý định đọc Tư Bản của
Marx và các tác phẩm của Lenin thì cũng khó lòng mà hiểu được vì nó quá đồ sộ
và quá khó. Nhưng Fidel là một trí thức, với một đầu óc có lẽ cực kỳ thông
minh. Ông hẳn đã đọc Marx và Lenin và có lẽ ông hiểu nhiều và rõ hơn không chỉ
đa số chúng ta mà còn hơn cả nhiều người tự cho mình là người theo Marx và
Lenin. Có lẽ vì thế mà niềm tin của ông có cơ sở hơn, vững chắc hơn. Nhưng có
lẽ cũng không thể thiếu được một niềm tin vô bờ bến. Xét theo cả hai cách thì ông
là người có niềm tin mạnh mẽ và có ý thức nhất, như chính ông đã từng tuyên bố:
Tôi là một người
Marxist - Leninist. Tôi sẽ là người như vậy cho tới ngày cuối cùng của đời
mình.