Thứ Tư, 31 tháng 10, 2018

Xe hơi và sự thay đổi


Nói đến ô-tô Đức, bạn sẽ nghĩ ngay đến BMW, Audi hay Mercedes, những chiếc xe hơi nổi tiếng là tốt, đẹp và cũng khá đắt nữa? Đúng. Nhưng đó chưa là tất cả câu chuyện về ô-tô Đức. Trong mấy chục năm, hàng triệu người Đức đã từng đi một chiếc xe có tên là Trabant. Đó là một loại xe nhỏ, hai cửa, dùng động cơ 2 kỳ, làm mát bằng không khí. Cái động cơ này tương tự như ở chiếc xe máy Simson, cũng do người Đức chế tạo, từng một thời "làm mưa làm gió" ở Việt Nam. Nhưng đó là một nước Đức khác, có tên chính thức là Cộng hòa Dân chủ Đức, gọi tắt là Đông Đức, một quốc gia tồn tại được bốn chục năm trước khi biến mất vào năm 1989 khi bức tường Berlin sụp đổ. Khi đổ xăng cho xe Trabant, người ta phải pha lẫn vào xăng một ít dầu nhờn - người miền nam gọi là "nhớt". Xe Trabant không có tiện nghi gì cả ngoài một chiếc đồng hồ báo tốc độ. Cái cần chuyển số khá là phiền phức và dễ gây nhầm lẫn bởi không rõ phải gạt về phía nào để vào số gì. Nếu muốn gạt mưa ở kính trước, bạn sẽ phải kéo một chiếc núm ra, sau đó lại ấn vào, và cứ tiếp tục kéo ra - ấn vào như vậy. Vì chạy bằng xăng pha dầu nên xe thường phun khói mù mịt, giống như mọi loại xe máy dùng động cơ 2 kỳ. Cửa xe đóng không kín và thiếu cách âm nên người trên xe tha hồ mà hít khói và nghe tiếng động cơ 2 thì rú rít và tiếng lọc cọc ầm ỹ phát ra từ gầm xe và các bộ phận khác do chế tạo thiếu chính xác và thiếu bảo dưỡng định kỳ. Ấy vậy mà Trabant đã từng là ước mơ của nhiều thế hệ người Đông Đức. Đơn giản là vì họ không có lựa chọn nào khác. Liên Xô vốn là một cường quốc công nghiệp. Nhưng họ lại quá chú trọng vào sản xuất xe tăng, có những chiếc xe tăng tốt nhất thế giới, mà lại ít chú ý vào việc sản xuất xe hơi cho nhân dân. Kết quả là số xe hơi sản xuất ra đã kém về chất lượng lại còn quá ít so với nhu cầu của dân chúng. Có câu chuyện - có lẽ là chuyện cười - kể về một người đàn ông Xô-Viết sau nhiều năm làm việc tích lũy đủ tiền thì quyết định mua ô-tô. Sau khi làm đủ các loại giấy tờ theo yêu cầu của cửa hàng ô-tô của nhà nước và thanh toán đủ tiền, người đàn ông hỏi:

- Bao giờ thì tôi được nhận xe?
- Năm năm nữa thì đồng chí quay lại đây nhận xe.
- Được rồi. Đúng 5 năm nữa tôi sẽ quay lại. Đồng chí cho tôi hỏi thêm là buổi sáng hay buổi chiều ạ?
- 5 năm nữa thì sáng hay chiều có khác gì nhau?
- Có khác đấy ạ. Vấn đề là buổi sáng thì tôi phải ở nhà để chờ thợ sửa chữa đường ống nước. Công ty cấp thoát nước của chính quyền xô-viết cũng vừa hẹn tôi đúng 5 năm nữa họ sẽ cho thợ đến xem!

Việt Nam - trừ thành thị ở Miền Nam trước năm 1975 - là một đất nước hầu như không có xe hơi. Phương tiện đi lại chủ yếu là xe đạp. Thỉnh thoảng mới thấy một vài chiếc ô-tô chạy trên đường và cũng chỉ có vài loại. Tất cả đều là xe của cơ quan nhà nước hay đơn vị quân đội. Tất cả đều do lái xe chuyên nghiệp lái. Tất cả đều là đi công tác. Không ai có xe riêng. Không ai biết lái xe cả. Nếu là UAZ - loại xe quân sự nhỏ do Liên Xô chế tạo, tương tự như xe Jeep của Mỹ - thì đó là xe dùng chung cho cán bộ của chính phủ hoặc quân đội. Nếu là xe Moscovit - một loại sedan nhỏ - thì ở trong sẽ là một vị thứ trưởng. Còn nếu là Volga - một loại sedan lớn hơn - thì đó là một vị bộ trưởng. Có ai đó đã làm câu thơ "nhại" thơ của Tố Hữu, một nhà thơ cách mạng nổi tiếng ở Việt Nam hồi đó như sau:

Bầm ơi có rét không bầm
Volga con phóng gà hầm con xơi!

Xe Volga thời đó là đỉnh cao của sự sang trọng, có lẽ còn "oách" hơn cả Mercedes loại sang bây giờ. Ấy vậy mà nó chẳng có tiện nghi gì cả. Vào mùa hè, khi trời nóng bức tới hơn 40 độ C, ta có thể thấy một vị bộ trưởng béo tốt trắng trẻo - rất dễ nhận ra bởi dân thường ai cũng gầy gò vì thiếu ăn và đen đủi vì thường xuyên phải đạp xe dưới trời nắng - oai vệ từ trong xe bước ra, áo đẫm mồ hôi vì xe không có điều hòa. Cái xe này cũng chẳng kín hơn cái Trabant là bao nhiêu nên trong xe thường có mùi xăng thoát ra từ những bộ phận không kín khít của động cơ. Ai vừa đi xe ô-tô thì biết ngay bởi quần áo đầu tóc toàn mùi xăng dầu. Ô-tô chỉ là một trong vô vàn thiếu thốn hàng tiêu dùng cho cuộc sống hàng ngày ở Liên Xô, Đông Đức, Ba Lan, TQ, Việt Nam, v.v, những xã hội từng bác bỏ kinh tế thị trường thời đó. Dù theo tư tưởng gì đi nữa thì cuối cùng, ai cũng thích đi một chiếc xe hơi tốt, được ăn no và ngon, ở nhà có tiện nghi và toilet sạch sẽ. Khi hàng triệu người đều muốn một điều gì đó mà họ thấy rõ là tốt hơn, dù là chiếc xe hơi hay một cấu trúc xã hội thì sớm hay muộn, sẽ phải có thay đổi. Đó là điều tất yếu.     

Một Con Người Vĩ Đại


Phần lớn chúng ta sống cả đời mà không thực sự hiểu một điều cơ bản: Cuối cùng thì ta sống để làm gì và như thế nào? Ta cứ đuổi theo hết cái này đến cái khác mà rút cục vẫn chỉ là quyền lực, danh vọng, tiền bạc, khoái lạc, những thứ dù có thế mang lại một chút phấn khích mà ta cứ ngỡ là hạnh phúc, mà thực ra chỉ là những ảo ảnh trên sa mạc, những đám mây huyền ảo trên bầu trời, đến rồi lại đi, chỉ để lại cho ta bất toại nguyện, buồn bã và trống rỗng. Thầy Thích Nhất Hạnh theo Đạo Phật từ khi mới 16 tuổi. Có lẽ ở những kiếp trước Người đã tu hành rồi nên ở kiếp này mới ngộ đạo sớm như vậy. Con đường của Người là sống một cuộc đời trong sáng như Phật, đem những nhận thức sâu sắc của mình về những lời dạy của Phật đến khắp nơi trên thế giới cho tất cả mọi người qua những khóa tu, những bài giảng trực tiếp và qua hàng trăm cuốn sách Người viết, giúp cho con người sống bình lặng và tỉnh thức, thiện hơn, tử tế và hòa thuận với nhau hơn. Thế giới đã công nhận sự đóng góp to lớn của Người cho tiến bộ của loài người. Người được coi là một trong những bậc thầy tâm linh có ảnh hưởng lớn nhất thời hiện đại. Chúng ta thật may mắn vì Người là người Việt, bởi những lời dạy bằng tiếng Việt trong sáng của Người giúp ta hiểu rõ ràng hơn những lời dạy của Phật. Một đất nước chỉ có thể vĩ đại khi có những cá nhân vĩ đại. Thiền Sư Thích Nhất Hạnh chính là một cá nhân như thế.

 Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, 92 tuổi, vừa trở về Việt Nam và thông báo là Người sẽ ở lại chùa Từ Hiếu ở Huế, nơi Người bắt đầu tu hành khi mới 16 tuổi cho đến khi viên tịch.

Thứ Hai, 22 tháng 10, 2018

Con đường muôn thuở


Có lẽ người ta đã đi tìm Anh
Bao năm rồi chẳng thấy
Bởi Anh nằm đấy
Không dấu vết, không địa chỉ, không tên
Anh là người lính vô danh
Như hàng triệu người khác
Trên Đất Nước này khổ đau muôn kiếp
Hết chiến tranh thì lại cày lại cuốc
Hạt thóc bao mồ hôi, nắng gắt, gió sương
Có chiến tranh là lại lên đường
Ra đi không ngày trở lại
Anh nằm đấy hố đất nông lấp vội
Bao người lính phía sau lại bước qua
Đồng đội hứa quay lại sau chiến tranh
Nhưng có lẽ chẳng còn ai sống sót
Chiến tranh xa rồi, người ta nhìn về phía trước
Ai còn ngoảnh lại tháng năm xưa?
Anh vẫn sống tuổi mười tám đôi mươi
Đường dài ngàn dặm hành quân
Nhớ tà áo nâu cô gái nhà bên
Thẹn thùng tiễn Anh đầu ngõ
Thương Cha Mẹ già bao năm vò võ
Sớm tối ngóng chờ tin Anh
Nhớ cánh đồng mưa ngập nắng hạn khô
Vắng Anh ai đỡ đần cày cấy?
Anh đi con đường thế hệ Anh năm ấy
Con đường chiến tranh
Con đường khổ đau muôn thuở.


Vừa rồi một người ở tỉnh Đồng Nai đào đất trong vườn nhà thì phát hiện 
một hố chôn tập thể 13 người lính cùng nhiều đồ vật cá nhân.