Ở
Việt Nam, ngay trung tâm thủ đô Hà Nội, ngay con đường đẹp nhất, bên bờ cái hồ rộng
và đẹp nhất, có một "tượng đài" để kỷ niệm ... một người Mỹ! Trong
lịch sử Việt Nam thời hiện đại, không có quốc gia nước ngoài nào có số lượng
công dân đã từng hiện diện ở đây nhiều như Mỹ. Ở thời điểm cao nhất vào năm
1968, có tới khoảng 543.000 quân nhân Mỹ tham chiến ở miền nam Việt Nam để ngăn
chặn Bắc Việt Nam thống nhất đất nước. Sau đó sự hiện diện của Mỹ cứ giảm dần.
Đến đầu năm 1973 thì quân đội Mỹ rút hết, toàn bộ tù binh Mỹ cũng được trao trả
hết, chỉ còn lại sứ quán ở Sài Gòn. Đến ngày 30-4-1975, sứ quán Mỹ cũng rút
hết. Những năm sau đó, những dấu vết về sự hiện diện của Mỹ ở Việt Nam cũng dần
dần biến mất. Hài cốt của quân nhân Mỹ mất tích cũng dần dần được tìm thấy và
trao trả cho Mỹ. Nhưng có một dấu tích khá là khác thường vẫn còn. Vào năm
1967, trên bầu trời Hà Nội, lực lượng phòng không Miền Bắc bắn rơi một máy bay
của giặc Mỹ xâm lược, như cách gọi
quân đội Mỹ của người Miền Bắc lúc đó. Tên
giặc lái Mỹ nhảy dù, rơi xuống hồ Trúc Bạch ở Hà Nội, bị bắt, bị tù cho tới
đầu năm 1973 thì được trao trả sau Hiệp Định Paris. Để đánh dấu chiến công thắng giặc Mỹ đó, người ta cho dựng một
phù điêu nhỏ có hình phi công Mỹ đội mũ bay, dường như đang quỳ gối, hai tay
giơ thẳng lên trời, có lẽ là để "đầu hàng" những người lính Bắc Việt
đang lao tới để bắt anh ta. Người phi công đó là thiếu tá hải quân Mỹ John
McCain, người sau chiến tranh chuyển sang hoạt động chính trị, làm thượng nghị
sỹ trong nhiều năm. Ông mới qua đời vì bệnh ung thư. Một số người Hà Nội đã
mang hoa tới viếng ông ở cái tượng đài "chiến thắng giặc Mỹ" kia.Trong
cuộc chiến Việt Nam, quân lực hùng hậu của Mỹ, trong đó có ông tham gia là kẻ
bại trận. Ông lại còn bị bắt, bị "kẻ địch" tù đày nhiều năm, có thể
còn bị "tra tấn", như truyền thông Mỹ thỉnh thoảng đưa tin, có thể
ông đã nghĩ mình bị "hạ nhục" bằng tấm bia "đầu hàng" ven
hồ Trúc Bạch, trong khi gia đình ông vào loại "trâm anh thế phiệt" ở
Mỹ, có cha từng là đô đốc hải quân, có tên được đặt cho một tàu chiến mới ghé
thăm Cam Ranh gần đây. Sau chiến tranh thì Việt Nam tiếp tục theo đuổi con
đường đã đi và chính quyền Mỹ vẫn tiếp tục ra sức chống lại. Trong tình hình
như thế thì nếu như ông là một nghị sỹ "diều hâu", ra sức "chống
phá" Việt Nam như chính phủ, quốc hội, nhiều tổ chức và cá nhân người Mỹ
khác thì đó là chuyện bình thường. Có thù hận thì phải trả một cách nào đó chứ.
Nhưng ông đã không làm vậy mà chọn con đường hòa giải với Việt Nam. Năm 1995,
ông và thượng nghị sỹ John Kerry, cũng là một cựu chiến binh Việt Nam, hai
người đã góp nhiều công sức nhất cho nỗ lực hòa giải với Việt Nam, đã cùng có
mặt bên cạnh tổng thống Clinton khi ông tổng thống chính thức tuyên bố bình
thường hóa quan hệ với Việt Nam. Vậy thì tại sao ông lại chọn con đường hòa
giải với kẻ thù xưa? Phải chăng ông đã
hiểu ra một điều rằng nếu vẫn cứ tiếp tục thù hận thì ông sẽ vẫn tiếp tục bị tù
đày bởi quá khứ, vẫn bị giam cầm trong cái "khách sạn Hilton Hà Nội",
một cái tên mà người Mỹ đặt cho nhà tù Hỏa Lò ở Hà Nội, nơi ông bị giam giữ
trong hơn 5 năm, vẫn là kẻ "giơ tay đầu hàng", như cái cách mà người
ta mô tả ông trong bức phù điêu kia. Nhưng ông đã chọn cách khác, bỏ qua thù
hận, hòa giải với "kẻ thù xưa", hòa giải với bản thân mình để hướng
về tương lai tốt đẹp hơn cho Việt Nam, và cho cả nước Mỹ nữa. Và từ vị trí
"tên giặc lái Mỹ giơ tay đầu hàng
quân dân Miền Bắc", ông đã trở thành một trong số rất ít người Mỹ được
kính trọng và chào đón nhất tại Việt Nam. Cái đài kỷ niệm về ông kia có lẽ sẽ
còn đó rất lâu, sẽ là minh chứng cho hai điều sẽ còn lại trong lịch sử của cả
Việt Nam và Mỹ. Đó là một cuộc chiến tranh tàn khốc của Mỹ trên đất Việt Nam và
sự hàn gắn vết thương khủng khiếp do cuộc chiến đó gây ra.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét