Mới
xảy ra việc một cô giáo lớp 6 ở Quảng Bình phạt một học sinh trai vì tội
"chửi bậy" bằng cách bắt cả lớp mấy chục em nhỏ tát vào mặt bé trai
kia. Dĩ nhiên, cô giáo kia đã làm một việc phản giáo dục. Nhưng dư luận đặt câu
hỏi tại sao cô giáo ấy lại làm thế? Có một bài viết khá sâu sắc của một tác giả
nữ trẻ trên báo VNExpress chỉ ra nguyên nhân sâu xa của việc này - và nhiều
việc khác nữa trong xã hội Việt Nam ngày nay, đó là sự sợ hãi. Ở phương tây, và
ngay cả ở Nga nữa, khi dân không hài lòng điều gì thì họ thường nói ra, có khi
ở trên mạng xã hội, trên truyền thông đại chúng, hay xuống đường biểu tình, như
ở Paris đang có các cuộc biểu tình lớn phản đối việc tăng giá xăng dầu. Ở đây
dân cũng có nhiều điều muốn nói ra. Nhưng họ im lặng. Họ chưa quen phát biểu
chính kiến của mình. Họ ngại, thậm chí là sợ. Một nỗi sợ vu vơ truyền kiếp lâu
đời. Trong khoảng một ngàn năm Bắc thuộc, dân Việt chịu sự cai trị trực tiếp
của những quan lại từ Trung Hoa tới. Đó là một lối quản lý nhà nước dựa trên
luật lệ hà khắc, đòi hỏi sự tuân thủ tuyệt đối và sự không tuân thủ sẽ bị trừng
phạt nặng nề. Vua chúa sống xa hoa trong lâu đài, cung cấm, tách biệt hẳn với
dân. Quan có việc cần tiếp xúc với vua thì phải quỳ lạy. Không được nhìn thẳng
vào mặt vua. Nếu nhìn thì có thể bị coi là "phạm thượng" và bị phạt
nặng. Xong việc không được quay đầu đi ra, mà phải đi giật lùi. Đạo lý của
Khổng Tử vốn là tốt đẹp, dần dần bị kẻ thống trị lợi dụng, biến thành những sợi
dây vô hình trói buộc dân để họ dễ bề thao túng . Dân chỉ còn biết cam chịu tủi
nhục để được yên thân. Khi người Việt giành được độc lập thì họ cũng kế thừa
luôn cái lối quản lý nhà nước ấy. Vả lại, khi đó thì cũng chưa có lựa chọn nào
khác. Người dân chấp nhận sống như thế trong nhiều thế kỷ. Vua chúa coi họ là
"thảo dân" - tạm dịch là "cỏ rác" - đại ý là có thể bị chà
đạp mà không thể phản ứng lại. Vua quan và dân cứ suy nghĩ và hành động như thế
hết đời này sang đời khác thì dần dần cái đó đi vào tiềm thức, vào "gen",
tự động truyền từ ông cha sang con cháu. Giữa thế kỷ 19, người Pháp dùng vũ lực
chiếm đoạt và biến Việt Nam thành thuộc địa để khai thác tài nguyên và nhân
công rẻ mạt phục vụ cho chính quốc. Với cách thức và mục đích như thế, hiển
nhiên là họ gặp phải sự kháng cự của người bản xứ. Để tiêu diệt sự kháng cự đó,
người Pháp lập ra một bộ máy cai trị và đàn áp gồm quan chức người Pháp nắm các
vị trí chủ chốt và một đội ngũ ngưởi bản xứ cấp dưới để thi hành các mệnh lệnh.
Vì thế nên dân Việt vẫn là kẻ bị trị, bị coi là dân da vàng nghèo nàn lạc hậu,
chỉ đáng làm nô lệ cho người Pháp. Nếu phản kháng nhẹ thì bì tù đày khổ sai ở
nơi xa xôi hẻo lánh như Lai Châu, Côn Đảo, còn nặng thì bị chặt đầu bằng những
chiếc máy chém mang từ Pháp sang. Cái mới đáng kể mà người Pháp mang sang là
những nhà hát opera, công sở, biệt thự kiểu Pháp, cầu Long Biên, đường xe lửa.
Những nỗi sợ truyền kiếp của dân Việt thì vẫn còn đó. Năm 1940, nước Pháp sụp
đổ trước cuộc tấn công của Đức Quốc Xã. Ở Việt Nam, chính quyền thực dân Pháp
cũng đầu hàng quân đội Nhật. Hai tròng áp bức đã dẫn đến nạn đói khủng khiếp
làm khoảng 2 triệu người chết ở Bắc Việt Nam. Năm 1945, nước Nhật phát-xít thua
trận và đầu hàng quân đồng minh. Tranh thủ bối cảnh ấy, cụ Hồ và phong trào
Việt Minh tuyên bố độc lập vào ngày 2-9-1945. Bản tuyên ngôn độc lập do cụ Hồ
viết và đọc có trích dẫn bản tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ và bản tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách Mạng Pháp năm 1791, đặt tên nước là Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Trong thư gửi Tổng Thống Mỹ Truman tháng 2/1946, cụ Hồ đề
nghị Mỹ, với tư cách là nước bảo vệ tự do
và công lý trên thế giới ủng hộ độc lập của Việt Nam và mong muốn hợp tác toàn
diện với Mỹ. Những điều này chỉ ra rằng cụ Hồ có ý định xây dựng một nước
Việt Nam theo hướng tự do và dân chủ. Mỹ đã không trả lời thư của cụ Hồ, có lẽ
vì họ còn quá bận rộn với việc xử lý Châu Âu và Nhật bản, hỗn loạn và tan hoang
sau sau chiến tranh, ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô hùng mạnh vừa đánh bại cả
Đức Quốc Xã lẫn Nhật Bản, hơn là quan tâm đến một đất nước nhỏ bé, xa xôi, thậm
chí còn chưa có tên trên bản đồ thế giới. Trong khi đó, vừa mới thoát khỏi ách
chiếm đóng của Đức Quốc Xã, Pháp đã vội vã huy động quân viễn chinh để chiếm
lại Việt Nam. Tưởng có thể "nuốt chửng" Việt Nam một cách nhanh
chóng, Pháp không ngờ gặp phải sự kháng cự quyết liệt của hàng triệu người với
quyết tâm không chịu mất nước và làm nô lệ cho Pháp một lần nữa. Nuốt không
trôi, với một kinh tế ốm yếu mới thoát khỏi chiến tranh, Pháp đành quay sang
cầu cứu sự hỗ trợ quân sự của Mỹ, với lý do là cần ngăn chặn sự bành trướng của
phe cộng sản ở Đông Nam Á. Điều này thuyết phục được Mỹ bởi Mỹ đã nhận thấy sự
hình thành một loạt các nước Đông Âu đi theo Liên Xô. Thế là thay vì ủng hộ cụ
Hồ, Mỹ quyết định ủng hộ Pháp chiếm lại Việt Nam. Trước tình thế gay go đó, cụ
Hồ buộc phải kêu gọi sự hỗ trợ của Liên Xô và Trung Quốc. Năm 1954, quân Pháp
đầu hàng tại Điện Biên Phủ, một việc
chưa từng có trong quan hệ giữa các cường quốc phương Tây với các nước nhược
tiểu. Từ đó, thế giới mới bắt đầu để ý đến Việt Nam. Hội nghị Giơ-ne-vơ sau đó
để xử lý vấn đề Việt Nam có sự tham gia của các cường quốc chủ yếu như Liên Xô,
Trung Quốc, Mỹ, Anh, Pháp. Theo hiệp định, Việt Nam bị tạm thời chia làm 2 miền
với kế hoạch là sẽ bầu cử trong vòng 2 năm để thành lập chính phủ mới và thống
nhất đất nước. Lo lắng trước viễn cảnh một Việt Nam thống nhất dưới sự lãnh đạo
của cụ Hồ và sẽ ngả theo phe Trung Quốc và Liên Xô, nước Mỹ bắt đầu can thiệp
trực tiếp để ngăn cản quá trình đó. Họ dựng lên một chính phủ ở Sài Gòn và bắt
đầu ồ ạt viện trợ kinh tế và quân sự với ý đồ như ô. Diệm tuyên bố là sẽ
"lấp sông Bến Hải, Bắc tiến" để nắm được cả nước, từ đó ngăn chặn
được sự mở rộng của "làn sóng Đỏ". Nước VNDCCH của cụ Hồ còn quá non
trẻ, lại kiệt quệ vì vừa ra khỏi cuộc chiến tranh 9 năm chống Pháp, vì thế
không còn con đường nào khác là phải dựa vào hai nước lớn là Trung Quốc và Liên
Xô để giữ vững và thống nhất lại được quốc gia đã được thành lập vào năm 1945.
Cứ thế, Việt Nam dần dần bị cuốn vào cuộc chiến tranh lạnh của các cường quốc.
VNDCCH gọi tắt là Miền Bắc dựng nước với hai bàn tay trắng. Bởi cánh cửa sang
Mỹ và phương tây đã bị đóng lại, Miền Bắc buộc phải dựa vào LX và TQ để học hỏi
từ hệ thống chính trị, mô hình nhà nước cho đến quản lý kinh tế. Sự tin tưởng
vào các nước "anh em" như LX và TQ có phần hồ hởi và ngây thơ, bởi
lúc đó chưa có ai có hiểu biết gì đáng kể về thực tế XHCN. Tất cả chỉ là niềm
tin, như là niềm tin tôn giáo vậy. Khi nhà độc tài Stalin chết, nhà thơ Tố Hữu
đã khóc thương thế này:
Ông Stalin ơi!
Ông Stalin ơi!
Hỡi ông mất, đất
trời có không?
Nhiều
người Bắc cảm thấy gần gũi với Lê Nin:
Ông Lê Nin ở
nước Nga
Mà em vẫn thấy
rất là Việt Nam
Tố
Hữu đã dành cho TQ một sự ngưỡng mộ:
Chào Trung Quốc
giang sơn hùng vĩ
Quê Hồng Quân
vạn lý trường chinh
Với niềm tin tốt đẹp như thế, Miền Bắc đã chấp nhận hệ
thống chính trị mà LX và TQ đã xây dựng. Đó là dictatura proletariata , một thuật ngữ tiếng Nga mà các tài liệu
chính thống của Miền Bắc dịch là chuyên
chính vô sản. Có lẽ chính xác hơn thì phải dịch là độc tài vô sản. Theo chính sách này, Lê Nin, rồi Stalin, Mao Trạch
Đông đã dùng bạo lực để loại bỏ tất cả những ai, những gì bị cho là liên quan
tới tư bản, địa chủ, tư hữu, bóc lột, chống đối chế độ. Dân Liên Xô thời
Stalin, dân TQ thời Mao sống trong một nỗi sợ thường trực là có thể bị quy kết
là tư sản, địa chủ, phản động. Cả về phương diện này, Việt Nam cũng bị ảnh
hưởng.Thế là nỗi sợ của người dân lại tiếp tục. Và cứ như thế cho đến tận hôm
nay. Những con người sợ hãi có thể là những công cụ tốt để thực hiện ý định của
nhà cầm quyền, ít nhất là trong một giai đoạn và hoàn cảnh nào đó. Nhưng họ sẽ
không phù hợp cho một xã hội phát triển và văn minh, nơi mà tự do và sáng tạo
là động lực quyết định. Gần đây, quan hệ giữa Việt Nam và Hàn Quốc có vẻ tốt
lên. Người Việt, nhất là các bạn trẻ, thích K-Pop, mốt, phim tình cảm Hàn và
thích bắt chước theo. Nhưng có lẽ ít người tìm hiểu lịch sử Hàn. Trong nhiều
thế kỷ, cũng như Việt Nam, bán đảo Triều Tiên là một xã hội phong kiến chịu ảnh
hưởng nhiều của Trung Hoa. Đầu thế kỷ 20, Triều Tiên cũng chịu sự đô hộ hà khắc
của đế quốc Nhật. Sau Thế Chiến 2, tương tự như Việt Nam, hai nhà nước được
hình thành - Bắc và Nam Triều Tiên. Năm 1953, khi chiến tranh Nam-Bắc Triều
Tiên kết thúc, Nam Triều Tiên, nay gọi là Hàn Quốc chỉ còn là một đống đổ nát.
Trẻ con đi học phải ngồi xuống đất ở ngoài trời, tập viết thì lấy que mà viết
xuống đất. Năm 1975, khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, Nam Việt Nam, ít nhất
là Sài Gòn thì đã khá phát triển. Bắc Việt Nam còn nghèo, nhưng lớp học ở những
vùng nghèo nhất cũng còn có "nhà tranh, vách đất", có bàn ghế. Từ
điểm xuất phát đó, trong vòng hai chục năm, HQ đã trở thành một cường quốc về
đóng tàu. Cũng trong khoảng thời gian đó, chính trị và kinh tế Hàn nằm dưới sự
lãnh đạo của những chính khách độc tài vô cùng hà khắc và sự độc quyền của
những công ty lớn có mối liên hệ gần gũi với họ. Nhưng dân Hàn nhận ra rằng sự
độc tài chính trị và độc quyền kinh tế đó sẽ kìm hãm và ngăn cản mục tiêu tiến
lên văn minh và hiện đại của đất nước. Dân Hàn, nhất là thế hệ trẻ đã tranh đấu
quyết liệt và không sợ hãi cho mục tiêu đó. Từ gần như con số 0 sau chiến
tranh, chỉ trong khoảng hơn ba chục năm, Hàn Quốc đã trở thành một nước văn
minh phát triển cao toàn diện. K-pop hay phim Hàn thì cũng tốt thôi. Song vượt
qua nỗi sợ hãi truyền kiếp của bản thân có lẽ là điều mà người Việt đáng học
hỏi hơn cả từ người Hàn.