Gần đây, một “làn sóng Hàn Quốc” lan ra nhiều nước. Các em tuổi “teen” say mê các “sao” ca nhạc Hàn, treo ảnh họ ở đầu giường, cố mặc áo quần, để đầu tóc cho giống các thần tượng ấy. Các bà các cô lớn tuổi hơn thì xúc động ứa nước mắt vì những mối tình éo le, mê những cảnh thiên nhiên thơ mộng, nhà cửa và cuộc sống hiện đại trong các phim Hàn. Cánh nam giới nghiện công nghệ thì “bái phục” những thứ như máy tính bảng đến điện thoại “thông minh”. Ngay đến Mỹ, nước có nền giáo dục vào loại hàng đầu thế giới cũng phải kính nể hệ thống giáo dục của xứ Hàn. Không còn nghi ngờ gì nữa, từ những xuất phát điểm gần như nhau, nay nước Hàn đã vượt lên tốp đầu thế giới, trong khi Việt Nam thì vẫn còn loay hoay để cố bứt khỏi tốp cuối. Nhưng ông Park, người phụ trách một học viện Nho giáo lâu đời nhất của Hàn Quốc mặc dù cũng đồng ý là Hàn Quốc đã xây dựng được nền kinh tế mạnh mẽ, nhưng theo ông thì “đạo đức của dân tộc đang trên bờ vực của sự sụp đổ, đất nước đang biến thành vương quốc đầy súc vật, ông cháu quát mắng nhau, người trẻ chửi người già trong tàu điện ngầm, thanh niên tự tử vì thất nghiệp, nhiều đứa trẻ tìm đến cái chết khỏi bị bắt nạt ở trường học, v.v.”. Băn khoăn của nhiều người Hàn là làm thế nào để cứu vãn nền đạo đức đó. Câu trả lời của ông là: Nho giáo. Người ta bắt đầu một chiến dịch đánh thức mối quan tâm đối với việc truyền bá Nho giáo, còn gọi là Khổng giáo, là một đạo lý, một lối sống trọng nhân nghĩa, trí tuệ, lòng dũng cảm, kính trọng cha mẹ, thày giáo và người già. Đạo lý này do Khổng tử truyền bá ở Trung Hoa từ cách đây hơn 2500 năm lan sang xứ Hàn từ cuối thế kỷ 14. Giảng đường Nho giáo gần Seoul được mở cửa vào năm 1543. Từ đó, nền giáo dục và đạo đức Hàn cơ bản lấy Nho giáo làm gốc. Những trẻ em và thanh niên ưu tú nhất được lựa chọn để học đạo lý của Khổng tử, thi ca và văn chương từ kinh điển Nho giáo để rồi ra làm quan phục vụ đất nước. Đến đầu thế kỷ 20, nước Hàn Nho giáo đã không chống nổi cuộc xâm lược của Nhật bản, một nước vốn cũng theo Nho giáo, nhưng đã công nghiệp hóa theo kiểu phương Tây từ thế kỷ 19, với quân đội và vũ khí hiện đại, vừa đánh bại cả hạm đội Nga trên biển. Từ đó, Nho giáo dần dần bị coi là lỗi thời và bị loại bỏ. Nhưng hiện nay, việc học Nho giáo ở Hàn ngày càng tăng, khoảng 15.000 học sinh mỗi năm. Học sinh tiểu học đến những khóa học như thời xưa mà trường học ngày nay đã bỏ như tập chào hỏi, ăn cơm, uống trà, thưa chuyện với cha mẹ, thầy cô cho lễ phép và học các cuốn sách của Nho giáo, thăm viếng đền thờ các bậc thánh hiền Nho giáo. Ông Park, người chủ trương khôi phục Nho giáo cho rằng hệ thống "giáo dục rác rưởi" của Hàn ngày nay quá nhấn mạnh vào học tiếng Anh và toán mà lại coi nhẹ các môn như đạo đức và lịch sử.
Câu chuyện Nho giáo của người Hàn thực ra khá là giống câu chuyện của Việt Nam. Nho giáo có lẽ đã theo chân người Trung Hoa vào Việt Nam từ sớm hơn, cách đây khoảng 2000 năm. Người Việt cũng sớm nhận thấy cái hay trong đạo lý của Khổng tử mà sẵn lòng chấp nhận cái học ấy, bởi nó lấy mục đích là giáo dục người ta thành người quân tử, với những phẩm chất đạo đức và tinh thần cao quý nhất. Nhưng rồi vua chúa cũng nhận ra rằng Nho giáo có thể giúp đào tạo ra những quan lại trung thành với vua. Thế là Văn Miếu - Quốc Tử Giám được lập ra vào khoảng năm 1070 để thờ Khổng Tử và là trường đại học đầu tiên cho con cái của triều đình, rồi sau đó mở rộng ra cho các học sinh xuất sắc của cả nước. Trong hơn 700 năm tồn tại, nơi đây đã đào tạo ra nhiều con người xuất chúng, tài giỏi và đức độ. Nhưng Nho học không chỉ phát triển ở kinh thành mà còn truyền bá khắp nước. Đặc sắc nhất là các ông đồ làng quê mà nơi nào cũng có. Họ vốn cũng từ nông dân mà ra, có đi học chút ít rồi lại về làm ông giáo “gõ đầu trẻ” trong làng. Họ được sự kính trọng của dân không chỉ vì họ dạy những cái “chữ Thánh hiền” nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, mà còn là cái đức hiếu thảo với cha mẹ ông bà tổ tiên, tinh thần “tôn sư trọng đạo”. Nhưng rồi cũng như Hàn, cái nền học chỉ chuyên thơ phú ngâm vịnh mà bỏ qua công nghệ và thương mại không đủ giúp sức cho Việt Nam chống trả được cuộc xâm chiếm thuộc địa của các cường quốc công nghiệp phương Tây, với “đạn nhỏ đạn to, tàu thiếc, tàu đồng, súng nổ”. Nhưng cái tinh thần của các ông đồ quê trông thì có vẻ như “trói gà không chặt”, ngồi thì “đầu gối đến tận mang tai” như Đồ Chiểu, Nguyễn Hữu Huân đã làm cho ngay cả những trí thức Tây học bậc cao nhất như Bs Nguyễn Khắc Viện cũng phải nhận rằng cái lớp thanh niên “Tây học” với bao kiến thức mới như toán, lý, hóa, y học tân kỳ mà vẫn thiếu một cái gì đó làm cho họ vẫn không sánh được với các ông “đồ gàn” quê mùa kia. Phải chăng đó chính là cái tinh thần “giàu không làm biến chất, nghèo không chịu hèn, uy vũ không thể khuất phục” của một bậc thánh hiền Nho giáo chân chính xưa là Mạnh Tử đã được người Việt hấp thụ, xây đắp và gìn giữ nhiều thế kỷ qua. Người Việt đang cố “công nghiệp hóa – hiện đại hóa” theo bước người Hàn và các dân tộc Đông Á khác, và có vẻ cũng đã có được một số kết quả bước đầu. Nhưng cũng như Hàn, người Việt cũng bắt đầu nhận ra sự “xuống cấp” nhanh của lối sống và đạo đức của mình. Mà cái xấu thì người ta học nhanh lắm. Thôi thì trò và cha mẹ trò hành hung thầy, thầy thì lạm dụng tình dục những bé gái hoc sinh mới ở cấp tiểu học, sinh viên nam thì cờ bạc nghiện hút, cướp giật, nữ sinh thì bán dâm để có tiền mua “hàng hiệu”, hiệu trưởng thì mua dâm nữ sinh, muốn vào trường này, lớp nọ thì phải “đút” bao nhiêu “vé” v.v. mà báo chí đưa tin nhiều tới mức đã thành “chuyện thường ngày ở huyện”. Người Việt đã học theo Hàn để hiện đại hóa thì có lẽ cũng nên theo cho “chót” mà “hiện đại hóa” – hay đúng hơn là “cổ hủ hóa” mà ý là khôi phục lại cái nền đạo lý truyền thống của mình. Trong lĩnh vực này thì Việt Nam có vẻ có ưu thế đấy bởi vốn có cả một bề dày 2000 năm theo đạo Thánh Hiền. Gần đây người ta có phong trào “học tập đạo đức và lối sống Bác Hồ” có lẽ là để đối phó với cái sự “xuống dốc không phanh” nói trên. Nhưng giá mà người ta hiểu là Cụ Hồ trước hết và có lẽ trên hết là một người thấm nhuần sâu sắc trong tư tưởng và lối sống của mình cái tinh thần của Khổng tử và các bậc thánh hiền Nho Giáo. Chính vì cái nền vững chắc ấy mà sau 30 năm làm “Việt kiều” ở Pháp và các nước phương Tây khác, thông thạo các tiếng Pháp, Anh, Nga, cái cốt cách và lối sống của Cụ về thực chất vẫn là một nhà Nho, vẫn với cái tinh thần bất tử ấy của các bậc tiền bối Khổng - Mạnh.
Thực sự chưa thấy người Hàn xuống dốc cho la71m về đạo đức. Hay nói đúng hơn, chuyện chưa có gì mà họ (người Hàn) đã ầm ĩ rần rần đi tu đạo Nho. Tôi vẫn thấy người Hàn còn lễ phép chán so với người VN XCN thời cận đại. Giả như mà họ nhìn về bờ vực đạo đức ở xứ VN XHCN, chắc họ khóc thét rồi ngất đi như một cụm hoa thạch thảo bị ngắt đi.
Trả lờiXóaKhông biết Thiên Khê là ai, nhưng đáng suy gẫm!