Tổng số lượt xem trang

Thứ Tư, 18 tháng 12, 2019

Bài học của cô Lý


                                                                                        
Như bao thanh niên khác, Lý cũng lên thành phố lớn tỉnh mình để lập nghiệp. Vài năm sau, phần vì thấy cuộc sống đô thị không hợp với mình, phần vì để chăm sóc bà mình già yếu cô đơn, cô trở về quê hương – một vùng núi ở Tứ Xuyên, TQ – để sống một cuộc đời mà nông dân ở đó vẫn sống có lẽ từ hàng ngàn năm qua. Cô gái mảnh mai đó tự cày ruộng bằng trâu kéo, gieo mạ, lội bùn cấy lúa, gặt đập thủ công, phơi thóc ở sân nhà, cũng lấy chân “di” thóc cho khô đều, v.v. , những việc quá quen thuộc với nông dân Việt Nam. Vườn nhà cô trồng đủ loại rau quả và hoa. Cô nuôi gà, cá và cả cừu. Cô vào rừng lấy củi đun, nấm, măng. Cô lội xuống hồ hái sen. Cô chặt tre nứa tự tay làm bàn ghế, đan lát dụng cụ trong nhà. Cô tự làm mực tàu, giấy “gió”, bút lông để vẽ tranh kiểu cổ điển TQ và viết chữ trang trí nhà năm mới. Cô nấu cả một “thực đơn” dài các loại món ăn màu sắc của vùng Tứ Xuyên, làm nhiều loại bánh truyền thống, làm đồ uống từ hoa quả và ngũ cốc. Cô tự cắt lông cừu, bện thành len, may áo khoác mùa đông. Khi còn ở thành phố, cô nhận thấy nhiều bạn trẻ lớn lên ở đó biết rất ít về nông thôn. Vì thế cô thử làm video để giúp các bạn đó hiểu những điều đơn giản như trồng lúa thế nào, cách nấu những món ăn truyền thống hay cảnh vật ở thôn quê. Cô chỉ làm, hầu như không nói, không “trình bày” gì cả. Cô không ngờ rằng rất nhiều người TQ thích các video đó. Họ như thấy một thôn nữ cổ tích, một nàng tiên trong các tranh vẽ và truyện cổ xưa TQ sống giữa cảnh vật và thiên nhiên đẹp hút hồn. Có tới hàng chục triệu người xem ở TQ và hàng triệu người ở nước ngoài. Vừa rồi, một cô gái ở Hà Nội có nói với một tờ báo rằng cô đành “cắn răng” trả VNĐ100k cho một chuyến taxi để đi làm vì cô không còn có thể chịu nổi việc phải chen lấn hàng ngày với hàng triệu xe máy và ô tô chạy hỗn loạn, kẹt cứng trong bầu không khí đặc kịt khói bụi ô nhiễm nữa. Hàng trăm triệu người ở các thành phố lớn ở TQ, Ấn Độ, Đông Nam Á, châu Phi cũng chịu cảnh tương tự. Đó là thế giới của các nước “đang phát triển”. Nhưng ngay cả khi sống ở Tokyo, một thành phố giàu có và phát triển bậc nhất thế giới, ở giờ cao điểm bạn vẫn phải chen lấn, dù có vẻ “trật tự và văn minh” hơn với hàng triệu người khác trên những chuyến tàu điện ngầm chật cứng. Sau khi thoát khỏi những đám đông như thế, bạn sẽ phải ngồi ở văn phòng hay xưởng sản xuất ở một công ty nào đó và xử lý hàng núi công việc cho tới tận tối mịt, chỉ để tiếp tục chen lấn theo chiều ngược lại để về nhà – một căn phòng chật chội ở cách chỗ làm hàng tiếng đồng hồ đi xe, mệt lử, ăn qua loa cái gì đó cho xong bữa tối, lăn ra ngủ để sáng hôm sau có sức mà tiếp tục cái chu trình bất tận ấy. Có người – có lẽ hàng triệu người sẽ đồng ý – sau khi xem video của Lý đã thốt lên rằng đó là một cuộc sống mơ ước. Điều đó dễ hiểu khi người ta đang sống như cô gái Hà Nội kia, hay như anh nhân viên văn phòng ở Tokyo hay Mumbai. Nhưng phải chăng chúng ta đều từng có nguồn gốc từ những làng quê như cô Lý kia. Cuộc sống của cô ta quả thực rất đỗi bình thường, có gì là “đặc biệt” đâu? Phải chăng ta đã không chịu nổi sự buồn chán của việc đêm nghe dế kêu, ngày nghe gà gáy, lợn kêu ủn ỉn, buồn bã nhìn ánh trăng lãnh lẽo mà than thân trách phận khi phải còng lưng cấy lúa mà vẫn phải “hầu hạ” một bà già đau yếu, xấu xí và cau có? Phải chăng ta bị cuốn hút bởi ánh đèn thành phố lung linh, siêu thị đầy ắp hàng hóa hay phố phường với những dàn xe cộ bóng loáng, những cô gái xinh đẹp của K Pop? Cuộc sống nào cũng có cái giá của nó mà ta phải trả. Ở đâu cũng có thể tìm thấy niềm vui và vẻ đẹp cuộc sống, nếu ta sống hết lòng, tận tụy và yêu thương tất cả. Đó là bài học không nhỏ của cô gái bé nhỏ họ Lý.   


Thứ Năm, 7 tháng 11, 2019

Chuyện của Xoan


Xoan – không rõ tên cô là gì nên tạm gọi như thế - làm nghề chèo đò du lịch ở Tràng An, một điểm du lịch nổi tiếng của Ninh Bình, một tỉnh cách Hà Nội 100km. Đò của Xoan nhẹ lướt trên con sông nhỏ uốn lượn giữa những ngọn núi đồi cây cỏ xanh tươi với những ngôi chùa thấp thoáng. Thỉnh thoảng, con đò lại chui qua những hang động huyền ảo. Người ta gọi vùng này là “vịnh Hạ Long trên cạn” thật không quá lời. Sau khi ngắm cảnh và chụp ảnh thoải mái, người ta hỏi chuyện cô lái đò cho chuyến đi thêm phong phú. Xoan bảo nghề chính của mình là làm ruộng. Do đặc điểm tự nhiên, ở đây chỉ làm được một vụ lúa. Làm ruộng, kể cả là 2 vụ thì chỉ tạm đủ ăn thôi, nghĩa là rất nghèo. Nếu muốn khá hơn thì phải làm thêm việc khác, như đi làm công nhân ở khu công nghiệp. Vùng này toàn núi, không có đất làm nhà máy nên làm công nhân thì phải đi xa, nhà cửa con cái phải nhờ bố mẹ già trông nom. Nếu không đi được thì phải chấp nhận sống nghèo ở quê nhà. Gần đây người ta nhận ra có thể làm du lịch bởi Tràng An có phong cảnh đẹp. Một “đại gia” – từ thường dùng để chỉ những nhà tư bản giàu có và quyền lực - người Ninh Bình bỏ tiền xây một khu chùa chiền Phật giáo rất lớn ở đây. Con sông ngày xưa chẳng biết để làm gì nay biến thành một tuyến du ngoạn trên thuyền chèo tay đẹp như mơ, có thể nói chả kém gì đi gondola ở Venise. Khách du lịch tới đây từ khắp nơi trên thế giới. Đặc biệt vào dịp tháng Giêng sau Tết, dân Việt ào ạt đổ về đây đi lễ chùa, ngắm cảnh và du ngoạn trên sông. Và tiền bạc cũng ào ạt đổ về đây. Nhưng tiền không chảy vào túi Xoan. Xoan vẫn nghèo. Để được chèo đò, cô phải góp một phần tiền để mua đò. Kể cả khi cô có cả cái đò riêng của mình, cô cũng vẫn không được chèo đò. Vị đại gia kia đã “đấu thầu” để được độc quyền khai thác con sông này cho du lịch. Khách phải trả Đ800k (khoảng US$34) cho một chuyến đò nhưng Xoan chỉ được Đ200k. Cô không được lĩnh ngay mà phải chờ đến một ngày trong tháng, như kiểu lĩnh lương vậy. Một chuyến đò mất khoảng hơn hai tiếng. Xong chuyến, có muốn đi tiếp chuyến khác ngay cũng không được bởi còn có tới 2 ngàn người như Xoan đang chờ đến lượt mình. Khoảng 3 hay 4 ngày nữa cô mới lại được chèo chuyến tiếp theo. Vào mùa lễ hội sau Tết, khách nhiều hơn thì Xoan được chèo nhiều hơn. Dù chịu khó chèo đò, thu nhập của Xoan cũng không khá hơn là bao. Chồng Xoan làm thợ xây ở trong vùng, một ngày được Đ200k. Nếu phải chi những khoản đột xuất như khi nhà có người ốm đau hay con đi học xa, nhà Xoan sẽ lâm vào cảnh khó khăn ngay. Để thoát nghèo, dân thuần nông như Xoan có thể phải đi kiếm sống ở những nơi xa, có khi là rất xa. Trong làng cũng có nhà con cái giỏi giang thành đạt nhưng số đó rất ít.

Cách Tràng An khoảng 250km về phía nam là huyện Can Lộc, nơi có ngã ba Đồng Lộc nổi tiếng trong chiến tranh chống Mỹ với 10 cô gái – thanh niên xung phong hy sinh oanh liệt năm 1968 trong một trận bom của không quân Mỹ khi đánh phá một điểm quan trọng trên con đường vận chuyển quân đội và vũ khí từ Bắc vào Nam. Trong những ngày gần đây, một cô gái Can Lộc nữa trở nên nổi tiếng theo một cách hoàn toàn khác. T.M. – tạm gọi như vậy bởi cảnh sát Anh vẫn chưa công bố chính thức danh tính các nạn nhân – một cô gái từ Can Lộc, trong lúc vật lộn với cái chết trong thùng đông lạnh đóng kín cùng với 38 người khác trên một chiếc xe tải đi từ Bỉ vào Anh, chặng cuối của con đường buôn người đã viết những dòng tin nhắn về Việt Nam sau đây:

- Mẹ ơi, con đang chết đây. Con không thở được. Con xin lỗi mẹ.  

Mấy hôm sau, những dòng ngắn ngủi ấy cùng với hình ảnh trẻ trung xinh đẹp của cô đã tràn ngập báo chí Anh và Châu Âu. Cái chết bi thảm của cô và những người Việt khác trên chiếc xe tải đó đã gây nên nỗi xúc động, xót xa thương cảm to lớn của người dân và chính quyền nước Anh, ngay cả trong bối cảnh hiện tại khi châu Âu đã gần như hết kiên nhẫn với làn sóng nhập cư từ các nước nghèo. Người nhập cư đã gây ra quá nhiều phiền phức cho họ. Công an và ngoại giao VN đã vào cuộc để cùng đối tác phía Anh xử lý vụ việc này và ngăn chặn đường dây buôn người. Gần đây, do kinh tế phát triển, nhiều người VN trở nên khá giàu có. Họ cho con cái đi học ở Anh, Mỹ và các nước phát triển khác, sau đó ở lại luôn để sinh sống và làm việc. Một số thuộc loại rất giàu còn mua cả nhà cửa cho con cái ở. Thậm chí họ còn “mua” cả quốc tịch, thẻ xanh – một loại giấy phép thường trú – cho cả nhà bằng cách đầu tư vào nước họ muốn tới một khoản tiền theo quy định của chính phủ nước đó. Người giàu có nhiều lựa chọn. Họ không nhất thiết phải đi nước ngoài bởi ở trong nước, họ vẫn có thể kiếm được nhiều tiền hơn và sống giàu sang. Nhưng những người nghèo như Xoan vẫn còn đó. Và rất, rất đông! Họ có ít lựa chọn lắm. Nhà Xoan chỉ trông vào một vụ lúa cộng thêm khoản chèo đò của Xoan và tiền công làm thợ xây của chồng Xoan. Với thu nhập ít ỏi đó, chẳng may nhà có ai đau ốm tai nạn thì chẳng biết lấy đâu ra tiền đi bệnh viện. Rất có thể, nhà Xoan đã từng tính chuyện “xuất khẩu lao động” rồi. Có con đường đi chính thức, an toàn, ví dụ như đi Hàn Quốc. Con đường này phải có nghề chuyên môn, đăng ký, chờ đợi, học và thi ngoại ngữ, v.v. khá lâu, phiền phức mà lương không cao lắm, công việc nặng nhọc. Hôm HQ nới rộng visa cho người Việt, hàng ngàn người chen chúc, chờ đợi từ đêm, mấy ngày vẫn chưa tới lượt nộp hồ sơ. Có thể Xoan đã nghe nói người ta đi sang châu Âu, sang Anh, làm công việc không đòi hỏi ngoại ngữ hay chuyên môn gì mà lại thu nhập cao. Nghe nói đó là việc làm nail hay trồng cần-sa. Ở Nghệ An, Hà Tĩnh có nơi cả làng cứ “dắt nhau” sang. Ít lâu sau, người ta đã gửi được tiền về xây nhà, mua ô tô. Có thể Xoan cũng biết là đi cách này chi phí cho “đường dây” cao, đi đường có nhiều khó khăn, rủi ro, sang đó công việc lại vất vả, cư trú bất hợp pháp. Nhưng với người nghèo, chẳng có cách nào dễ cả. Muốn nhanh “thoát nghèo” thì phải chịu khổ, phải liều lĩnh một chút. Vả lại thì cũng chả còn con đường nào khác. Đi như vậy sẽ phải qua “đường dây” đưa người bất hợp pháp vào châu Âu, vào Anh. Có thể sắp tới, những đường dây như thế sẽ ngừng hoạt động, ít nhất là trong một khoảng thời gian nào đó. Rồi thì mọi việc sẽ lại như cũ khi “chiến dịch” truy quét lắng xuống. Mọi chiến dịch chỉ là giải pháp tạm thời, không thể giải quyết được gốc rễ của vấn đề: sự nghèo đói và bất bình đẳng xã hội. Có thể Xoan không đủ liều lĩnh để đi theo “đường dây”, nhất là sau cái chết bi thảm của 39 người vừa rồi. Xứ Nghệ Tĩnh, quê hương của T.M. xưa nay có tiếng là quyết tâm và can đảm. Trong cuộc chiến chống Mỹ, 10 cô gái Đồng Lộc đã chứng tỏ sự cam đảm phi thường dưới mưa bom của không quân Mỹ để bảo vệ con đường huyết mạch Bắc – Nam. Nếu T.M. sống ở thời đó, có lẽ cô cũng như vậy. Ngày nay, thoát nghèo cũng đòi hỏi quyết tâm và can đảm không kém. Sẽ có những người nghèo tiếp tục tìm mọi cách ra đi. Sẽ vẫn như vậy cho tới bao giờ thì không ai biết. Có thể là đến khi không còn những người nghèo như Xoan và T.M. nữa. Đó là khi mà Việt Nam sẽ “sánh vai với các cường quốc năm châu” như ước vọng của Cụ Hồ năm 1946.

Thứ Hai, 14 tháng 10, 2019

Cám ơn Cụ


Hôm nay là một ngày rất đặc biệt với gia đình tôi. Đúng ngày này 1 thế kỷ về trước, một em bé đã oe oe chào đời, người mà về sau đã gặp cụ bà rồi để sinh ra cả một đại gia đình đông con cháu chắt. Đúng hôm nay, cụ đã tròn 100 tuổi. Mấy hôm nay, ông tôi – người con trai duy nhất của cụ, đã hì hà hì hục chuẩn bị các dây rợ loằng ngoằng lấp lánh để trang trí nhà cửa, treo những tấm ảnh quý giá và những bức thư bằng tiếng Pháp lên tường, chào đón sinh nhật cụ. Thật ra, tôi chưa bao giờ có thể gặp mặt cụ vì cụ đã mất từ lâu. Tôi chỉ nhận biết được cụ qua tấm ảnh cũ, chỉ nhìn thấy vầng trán cao, nụ cười tươi tắn qua những tấm ảnh nhỏ. Hôm nay – mừng sinh nhật cụ 100 tuổi,tôi chỉ muốn nói với cụ: Cụ ơi, con cảm ơn cụ rất nhiều vì nhờ có cụ, chúng con mới có được ngày hôm nay.
 Bé Q.C. 10 tuổi viết nhân dịp sinh nhật cụ mình 100 tuổi ngày 8/10/2019.   

Thứ Sáu, 11 tháng 10, 2019

Ai may hơn?

Khi những dòng này đang được viết ra, Hà Nội đã vào giữa thu. Bầu trời xanh thẳm cao vút. Những con đường mát rượi che phủ bởi vòm lá xanh ngắt rực sáng dưới nắng ấm. Phố xá tấp nập xe cộ. Những chiếc xe tải nhỏ chở đầy bia tới những hàng quán để phục vụ khách xem đội Việt Nam sắp đá trận tiếp theo vòng loại World Cup 2022 qua những màn hình TV cỡ lớn. Cũng vào lúc này, ở một nơi cách Hà Nội có lẽ khoảng mười ngàn km về phía tây bắc, xích xe tăng đang rít lên ken két trong tiếng rền vang của đại bác, tên lửa, chiến đấu cơ Thổ Nhĩ Kỳ nã bom đạn vào làng xóm của người Kurd ở phía nam nước Thổ. Xưa nay, các nước nhỏ yếu vẫn thường bị các nước lớn xâm chiếm và áp bức. Trong hoàn cảnh đó, dân những nước nhỏ yếu không có khát khao nào hơn là được độc lập tự do. Họ chiến đấu với hy vọng quê hương sẽ lại được giải phóng. Với người Kurd, hoàn cảnh hiện tại cũng tương tự và lại còn khó khăn gấp bội. Trong nhiều thế kỷ, dân Kurd vốn là những bộ lạc, sống du mục trên một vùng đất mà nay thuộc lãnh thổ của Thổ nhĩ Kỳ, Syria và Irac. Với ngôn ngữ và văn hóa riêng, họ cứ sống như thế mà chưa từng lập ra một quốc gia riêng của mình. Có thể vì thế mà họ bị coi là những kẻ sống nhờ, thường bị xua đuổi và đàn áp. Dân Kurd không có một vùng đất riêng của mình để mà nhớ về như là quê hương, là quê cha đất tổ, là nơi mà họ có thể thề sẽ trở về để giải phóng. Là những chiến binh dũng cảm và thiện chiến, với sự hỗ trợ quân sự của Mỹ, họ đã ngăn được sự bành trướng của Nhà Nước Hồi Giáo IS tàn bạo. Giờ đây, khi mà IS không còn là mối đe dọa lớn nữa, các đồng minh của người Kurd bắt đầu trở mặt. Dân Kurd vẫn luôn có một ước mơ cháy bỏng là lập nên một quốc gia của mình trên chính vùng đất mà họ đã từng sống nhiều thế kỷ. Giờ đây, khi người Kurd dường như đã mạnh lên sau cuộc chiến với IS, ước mơ lập quốc đó của họ lại tiếp tục là mối đe dọa về lãnh thổ với các nước xung quanh, trước hết là Thổ Nhĩ Kỳ. Mỹ thì đang rút lực lượng của mình sau khi tuyên bố chấm dứt sự ủng hộ của họ với người Kurd, đồng minh của Mỹ trong cuộc chiến chống IS. Lãnh đạo nước Mỹ luôn có những tính toán trong từng bối cảnh cụ thể họ tin là “có lợi cho Mỹ” nhất, kể cả khi có thể bị coi là phản bội lại những cam kết trước đây, kể cả ở cấp cao nhất. Dân Kurd lại tiếp tục chịu đau thương dưới bom đạn của Thổ và sự đồng lõa của Mỹ. Người Kurd chỉ còn một con đường là tiếp tục cuộc chiến đấu lâu dài cho độc lập tự do của mình.

Với ba chục năm chiến tranh ác liệt, hàng triệu người chết, bom đạn chưa nổ và chất độc vẫn còn gây chết người đến tận hôm nay, khó mà nói là dân Việt còn “may” hơn người Kurd. Nhưng thực tế là người Việt có một vùng đất không nhỏ, một vùng biển rộng lớn mà cha ông để lại. Dù có đi đâu, sống giàu có, thành đạt đâu đó ở xứ người, ta vẫn có một nơi chốn thiêng liêng sâu thẳm trong lòng để nghĩ về, nhớ về, nhất là khi người ta không còn trẻ nữa và khi người ta có một tấm lòng, như cách nói của Trịnh Công Sơn. Đó là một góc phố nhỏ cũ kỹ hồi bé ta chơi đùa với chúng bạn. Đó là gốc đa đầu làng ta ngồi nghỉ dưới bóng mát khi trở về từ đồng ruộng. Đó là con suối nhỏ đầy đá cuội trưa hè ta ngồi cho nước mát chảy qua, vô tư lự nghe chim hót trong lùm cây cao. Đó là nơi cha mẹ ta yên nghỉ trên một ngọn đồi nhỏ yên tĩnh, bên một con sông lặng lẽ chảy về xuôi. Người Việt chắc là ai cũng có những “nơi chốn” như thế, dù họ có thể không đồng ý với nhau nhiều thứ, nhất là chính trị. Cho nên, nói chuyện người khác là để có lòng thương cảm với họ, nhất là những người có hoàn cảnh bất hạnh, khó khăn như người Kurd. Chuyện người khác cũng thường giúp ta nhìn lại mình, hiểu mình hơn, quý nhưng gì ta có hơn là phàn nàn về thứ ta không có.  

Thứ Tư, 9 tháng 10, 2019

Nhớ về một Con Người

Trong Thế Chiến 2, nước Pháp, quê hương của Tự Do – Bình Đẳng – Bác Ái bị nước Đức phát-xít giày xéo. Phải nhờ quân đồng minh, nước Pháp mới lại được tự do. Nhưng chính phủ Pháp khi đó không chịu hiểu một điều là tự do cũng không kém phần quý báu đối với các dân tộc thuộc địa Pháp, trong đó có Việt Nam. Vừa thoát khỏi gót giày Hit-le, Pháp đã vội vã đưa chiến hạm và đội quân xâm lược trở lại Việt Nam.

Trước tình thế gay go ấy, tháng 12/1946, Chủ Tịch Hồ Chí Minh của nước Việt Nam non trẻ vừa mới giành được độc lập một năm trước đó đã kêu gọi toàn thể nhân dân Việt Nam chống lại cuộc xâm lược của Pháp. Với hy vọng độc lập tự do thiết tha, hàng triệu người Việt Nam đã đáp lại lời kêu gọi ấy.
Trong số đó có một đôi vợ chồng trẻ với một bé gái nhỏ. Anh vốn là một chàng trai Hà Nội, học sinh trường Bưởi – trường trung học dành cho những học sinh người Việt xuất sắc nhất ở miền bắc thời bấy giờ. Yêu văn hóa Pháp, anh thuộc lòng những bài thơ lãng mạn của Rimbaud và Verlaine, những đoạn văn của Victor Hugo và Anatole France. Chị vốn là nữ sinh trường Công Giáo Sainte Marie. Chị thích những bản tình ca Pháp như C’est à Capris hay bài dân ca vui vẻ Quand on est matelot.

Nhưng cái mà Anh yêu hơn cả là tinh thần Tự Do của Cách Mạng Pháp 1789. Cái sâu sắc nhất thấm vào con người Chị lại là tinh thần của Chúa Giê-su, bình thản chịu đựng mọi khó khăn vất vả của cuộc đời. Bỏ lại nhà cửa và cuộc sống êm ấm ở Hà Nội, với hai bàn tay trắng và một cô con gái nhỏ, họ lặn lội lên núi rừng Việt Bắc, tham gia vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Suốt 9 năm ở chiến khu, hai người đã chịu đựng muôn vàn thiếu thốn, đói rét, bệnh tật, bom đạn chiến tranh, cố gắng làm tốt một công việc bình dị là dạy học cho các em nhỏ ở khắp các vùng rừng núi Bắc Việt Nam.
Dường như có một sức mạnh kỳ lạ đã giúp hai con người mỏng manh ấy vượt qua những khó khăn mà ngày nay chúng ta khó mà hình dung được. Sức mạnh ấy chính là tình yêu thương, lòng chung thủy và khát khao trở về thành phố quê hương thân yêu. Cặp vợ chồng trẻ ấy chính là Cha Mẹ chúng ta, Ông Bà của các con chúng ta và Cụ Ông Cụ Bà của các cháu chúng ta.

Hôm nay chúng ta kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Ông. Ông sinh ngày 8/10/1919 tại Hà Nội. Các cụ thân sinh Ông gốc gác ở làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Đông. Cụ ông lúc trẻ làm nghề khắc dấu, một nghề truyền thống của Nhị Khê, sau làm nghề bốc thuốc. Cụ bà là một phụ nữ Việt Nam truyền thống, cả đời lo việc gia đình phục vụ chồng con. Cụ ông phải bôn ba kiếm sống nên từ nhỏ, Ông ở với anh cả là Bác Đoan, làm công chức ở Hà Nội, người đã nuôi Ông ăn học cho tới khi học xong trường Bưởi và đi làm. Sau đó Ông gặp Bà, khi đó là nữ sinh trường Sainte Marie ở Hà Nội.
Sau 9 năm kháng chiến chống Pháp, cuối năm 1954, Ông Bà cùng 3 con đã theo đoàn quân chiến thắng trở về thủ đô. Từ đó, ông tiếp tục công tác giáo dục, từ dạy cấp 1, biên soạn sách giáo khoa, xuất bản, nghiên cứu, đào tạo giáo viên tiểu học. Sau nghỉ hưu năm 1975, ông tiếp tục hỗ trợ cho hoạt động của quỹ nhi đồng LHQ UNICEF tại Việt Nam.

Có lẽ cái chất giản dị, thanh bạch, quân tử của Nguyễn Trãi, một người cùng làng Nhị Khê nhiều thế kỷ trước đã phần nào truyền lại tới tận đời Ông.  Thời trẻ tuy có học nhiều ngôn ngữ và văn hóa Pháp, Ông vẫn mang phẩm chất của một nhà nho. Nghèo mà không hèn -  lời dạy đó của các bậc thánh hiền xưa là nguyên tắc sống của đời Ông. Dù nghèo, Ông chưa bao giờ vì tiền bạc mà bỏ nhân cách. Ông suốt đời đọc sách vì đối với Ông, hiểu biết là niềm vui mà dốt nát là nỗi khổ. Ông là người giản dị, thân mật, dí dỏm và chu đáo. Ai đã tiếp xúc với Ông đều nhớ nụ cười trong sáng và đôn hậu của Ông.

Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Ông hôm nay, chúng ta nhớ tới Ông và Bà với tràn đầy tình yêu và lòng biết ơn. Ông Bà không chỉ sinh ra và nuôi dưỡng mà còn dạy dỗ chúng ta nên người. Ông dạy dỗ chúng ta bằng những trang sách Tập Đọc lớp 1 mộc mạc đầu tiên cho tới những trang Hồi Ký cuối đời. Bài học quan trọng nhất không phải là viết cho văn vẻ hay làm toán cho đúng mà là học để thành NGƯỜI. Bài học vô giá ấy Ông Bà đã dạy bằng chính cuộc đời mình.

Hà Nội, 8/10/2019

Chủ Nhật, 22 tháng 9, 2019

Tiễn Bà


Công việc đời mình đã làm xong
Một ngày mùa thu nắng xanh trong
Thanh thản ra đi về Cõi Ấy
Để lại cả muôn vàn yêu thương

Thứ Năm, 5 tháng 9, 2019

Ngày Khai Trường


Sáng nay bé Quỳnh dậy sớm hơn mọi ngày. Em mặc bộ quần áo trắng, đi giày trắng, cổ đeo chiếc khăn quàng “Thiếu Niên Tiền Phong” đỏ tươi. Em có vẻ háo hức lắm bởi hôm nay là Ngày Khai Trường. Hơn nữa em lại còn là thành viên đội trống, sẽ đánh những nhịp trống rộn ràng trong sân trường trước hàng ngàn học sinh và thày cô giáo. Quỳnh là một trong 22 triệu học sinh cả nước bước vào một năm học mới ngày 5/9 hàng năm. Dù kinh tế có phát triển trong những năm gần đây, Việt Nam vẫn còn là một nước nghèo với mức thu nhập xếp vào hàng trung bình thấp. Số lượng học sinh lớn như thế đồng nghĩa với một gánh nặng cho toàn xã hội trong đó gia đình các em phải gánh vác một phần không nhỏ. Câu nói  hy sinh đời bố, củng cố đời con” không chỉ là nói đùa mà là một sự thật. Ở Việt Nam thì ít gia đình, kể cả khi rất nghèo nề hà điều đó. Nhưng rồi sự hy sinh của gia đình và sự vất vả của các em trong nhiều năm có dẫn đến kết quả gì không thì ít ai dám chắc. Học thì vất vả tốn kém là thế nhưng khi ra trường lại khó có việc làm. Nếu có việc làm thì ít khi hợp với cái đã học ở trường. Có việc làm cũng chưa yên bởi lương thường quá thấp so với giá cả. Ấy là chưa nói đến chuyện “lót tay”, một yếu tố mà hầu như ai cũng phải tính đến trong dự trù chi phí để học được trường tốt, để có việc làm. Nhưng vượt qua tất cả những khó khăn kể trên vẫn là điều có thể. Nhưng vẫn còn một điều quan trọng, có khi là quan trọng nhất, nhưng lại là một “nhiệm vụ bất khả thi”. Đó là câu chuyện học cái gì và để làm gì, nói một cách văn vẻ là “triết lý giáo dục”. Đó là chủ đề mà các cơ quan về chính sách và quản lý giáo dục, các chuyên gia đủ loại, giáo viên, rồi cả học sinh và phụ huynh bao năm nay cứ bàn đi xới lại. Cũng từng có không ít những cải cách tốn kém với những khoản ngân sách lớn. Kết quả vẫn chỉ là những thay đổi “nhỏ giọt”, chưa có dấu hiệu nào của một thay đổi gốc rễ và đột phá. Người ta đổ lỗi cho nhau thay vì chỉ ra đâu là nguyên nhân chính. Thực ra có lẽ người ta vẫn biết đâu là gốc rễ vấn đề nhưng ngại đụng đến khu vực đó. Người ta không tin có thể thay đổi được. Nếu xã hội là một đoàn tàu thì giáo dục có lẽ chỉ là một toa tàu. Cái mà người ta cố gắng bấy lâu nay chỉ là sắp xếp lại một chút ở trong cái toa tàu ấy. Có thể tốt hơn một chút như sạch hơn, trật tự hơn. Còn lại, mà lại là những điều quan trọng nhất như đi đâu, nhanh hay chậm… thì lại là việc của cái đầu tàu, của người lái tàu, người chỉ huy cả hệ thống chạy tàu. Bé Quỳnh và hàng triệu em khác hôm nay tung tăng tới trường. Các em còn quá nhỏ và ngây thơ để hiểu rằng các em đang đi trên một đoàn tàu cũ kỹ, ỳ ạch, cọc cạch rung lắc trên những đường ray cổ lỗ cả trăm năm. Có thể rồi đây, những thế hệ học sinh tương lai sẽ không còn phải đi trên những con tàu đáng buồn như thế nay. Không ai dám chắc là bao giờ cả.

Thứ Năm, 1 tháng 8, 2019

Thơ Đường và Thời Sự


Đạm đạm Trường Giang thủy
Du du viễn khách tình
Lạc hoa tương dữ hận
Đáo địa nhất vô thanh

Đó là bài thơ Nam hành biệt đệ của Vi Thừa Khánh, một nhà thơ thế kỷ thứ 7 đời nhà Đường TQ. Sau đây là một số bản dịch:

Nước sông trôi lặng lẽ
Viễn khách nhớ thương dài
Hoa rụng sầu tê tái
Nhẹ nhàng không tiếng rơi

(Trần Trọng Kim)

Lững lờ dòng nước Trường Giang
Ngậm ngùi lòng khách mênh mang một trời
Hoa kia cũng hận theo người
Đầy trên mặt đất cánh rơi âm thầm

(Đỗ Bằng Đoàn – Bùi Khánh Đản)

Trường Giang nước vẫn lặng lờ trôi
Tha hương viễn khách dạ chơi vơi
Hoa rụng cùng mang niềm sầu hận
Nhẹ nhàng chạm đất chẳng tăm hơi

(Phụng Hà)

Trường Giang nước chảy dầu dâu
Tiễn đưa một chén dạ sầu đôi nơi
Nhìn theo hoa rụng tơi bời
Hoa kia cũng hận cho người biệt ly

(Nguyệt Hồ)

Nước biếc Trường Giang chảy lặng lờ
Người xa man mác sóng tình xô
Rẽ đôi mối hận hoa sầu rụng
Chạm đất âm thầm không tiếng tơ

(Nguyễn Lãm Thắng)

Còn rất nhiều bản dịch khác nữa cũng hay không kém. Ngắn ngủi vẻn vẹn 4 câu, viết bằng tiếng Hán, vậy mà 13 thế kỷ sau vẫn gây được cảm hứng cho nhiều người Việt. Thơ có nguyên tác bằng tiếng nước ngoài có lẽ không thể dịch. Người ta phải hiểu ý, cảm thụ sâu sắc và xúc động vì hình ảnh, âm thanh và tình cảm của bài thơ ấy thì mới có thể “dịch” nó – đúng hơn là làm một bài thơ khác theo cảm xúc của riêng mình. Nỗi buồn của con người khi phải xa nơi chốn và những người thân yêu thì ở đâu và bao giờ cũng thế.  Có người sẽ hỏi trong lúc đang “nước sôi lửa bỏng” ở Biển Đông lại đi nói chuyện thơ Đường thì có “lạc đề và vô duyên” không? Trên mạng xã hội Việt Nam ngày nay thì cứ động nói đến TQ, Biển Đông, v.v. thì nhiều người lập tức “nhảy dựng” lên ngay bởi có sẵn cái sự ghét “Tàu” như “đào đất đổ đi” vậy. Nếu có phép màu nào đó thì người ta sẵn sàng cho TQ “biến mất” khỏi bản đồ thế giới! Nhưng TQ vẫn ở đấy từ hàng ngàn năm qua và chắc sẽ còn lâu nữa. Tổ tiên người Việt chúng ta đã biết rõ như thế từ lâu. Các cụ vẫn học kinh điển Trung Hoa như Tứ Thư, Ngũ Kinh, vẫn yêu thơ Đường như bài thơ trên, vẫn du nhập nhiều phong tục từ TQ như Tết, thờ cúng cha mẹ tổ tiên, vẫn theo đạo người quân tử do Khổng Tử truyền bá và lại còn trang trọng lập đền thờ ngài tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội. Nhưng cha ông ta cũng luôn quyết liệt chống lại tư tưởng và hành động bá quyền nước lớn của vua chúa TQ qua nhiều thế hệ. Bài học của tổ tiên chúng ta là không thể nào “xổ toẹt” một nước láng giềng khổng lồ và một nền văn hóa lớn như TQ. Chỉ có một cách là phải khéo léo cương nhu tùy thời để tồn tại bên cạnh, học được cái hay mà vẫn không bị đồng hóa, bị nuốt chửng bởi dân tộc Hán như nhiều dân tộc sống xung quanh dân tộc Hán bao gồm cả trăm dân tộc Việt – sử gọi là Bách Việt - trong lịch sử. Ông cha đã làm được như thế thì không lẽ gì chúng ta lại chịu thua?  

Thứ Tư, 31 tháng 7, 2019

Chiếc kèn cũ


Bỗng nhiên tìm thấy
Bạn cũ bao nhiêu năm
Âm thanh vẫn du dương
Như ngày nào say đắm
Thì ra bao năm tháng
Chàng trai ấy vẫn còn
Mà ta lỡ bỏ quên
Một phần trong sáng nhất
vẫn theo ta đi suốt
Mặc ảo ảnh phù du
Cuối cùng bạn hiểu ra
Ta chỉ có thể là ta
Đó là món quà
Từ Thượng Đế

Thứ Hai, 29 tháng 7, 2019

Phép mầu


Một sớm mai tĩnh lặng
Tỉnh lại Sau giấc mơ*
Trầm lắng Elegie*
Nhẹ dâng buồn man mác
Quên nỗi lo thường nhật
Khi nghe nhạc Faure
Gavane*, Sicilienne*
Dịu đi đời bão táp
Cần một nơi chốn khác?
Nơi trú ẩn trong ta
Có một chút thiêng liêng
Niết Bàn của riêng bạn
Nó vẫn luôn ở cạnh
Nó chẳng ở đâu xa
Nó ở ngay trong ta
Đó là Tình Yêu
Đó là phép màu
Thượng Đế  

*Các tác phẩm của nhạc sỹ Pháp
Gabriel Faure (1845-1924)

Mừng sinh nhật Cháu


Thấm thoắt thế mà đã mươi năm
Hạt mầm ngày ấy thành cây con
Rạng rỡ tươi xanh thiên thần nhỏ
Tuổi già liệu có gì vui hơn?

Thứ Ba, 23 tháng 7, 2019

Ngôi nhà cũ


Gió mát hiu hiu những buổi trưa
Nắng xuyên vòm lá ánh lung linh
Sân gạch đỏ tươi chào buổi sáng
Ngõ nhỏ ai rao giữa đêm đông

Vẫn nghe đâu đó tiếng trẻ thơ
Nhớ ai tần tảo buổi hàn vi
Nhớ Người thanh cao đôi mắt sáng
Bồi hồi vương vấn kỷ niệm xưa

Giờ đà tới lúc phải rời xa
Tạm biệt tháng năm những giấc mơ
Gặp gỡ chia ly, đời là thế
Chút tình còn lại chốn năm xưa


Thứ Ba, 2 tháng 7, 2019

Bờ sông Rio Grande


“Ngày mai chúng ta sẽ đi” – Anh nói
“Mình đi đâu hả bố?” – Bé gái hỏi, mắt tròn xoe
“Ta sẽ đến một nơi xa
Nơi ấy mình sẽ sung sướng lắm”
“Sao nơi ấy lại sung sướng hả bố?”
“Bởi nơi ấy là Thiên Đường
Địa Ngục là nơi ta đang ở”
Mờ sớm bé còn đang ngủ
Người cha đã gọi lên đường
“Bố ơi con đói lắm rồi”
“Ta cứ đi đến khi trời sáng
Rồi sẽ có người cho ta chút bánh
Hay sẽ nhặt được thứ gì đó ven đường
Bởi có những người ăn không hết
Họ sẽ vứt thức ăn đi
Ta sẽ ổn thôi, con chớ lo
Hãy vui lên bởi đường dài lắm
Sẽ phải vượt qua mấy ngàn cây số
Hai cha con cứ thế đi
Đi bộ, nhờ thuyền, xe ngựa, xe hơi
Sông suối nhỏ thì lội hay bơi qua
Lúc thì chui lủi trên tàu hỏa
Tối ngủ vạ vật ven đường hay bậc cửa
Khi trong rừng rậm mưa rơi
Cha con cứ thế bên nhau
“Con ơi, có bố đây, đừng sợ”
Rồi một hôm bỗng xuất hiện
Một con sông chảy xiết rộng mênh mông
“Bố ơi làm sao mình có thể qua?”
Anh cười: “Con ơi, mình sắp đến rồi đó!”
“Bên kia là Thiên Đường hả bố?”
“Phải rồi, giờ ta phải bơi sang
Con hãy ôm chặt bố trên lưng
Có bố đây, con đừng sợ”
Sáng hôm sau có người đi câu cá
Thấy hai cha con nằm úp mặt ở bờ sông
Bé gái vẫn ôm chặt lấy cha
Bé tin có cha là ổn cả
Bé ơi, em đã lên Thiên Đường rồi đó
Có thể hai cha con đang ngồi bên Chúa
Bởi bên kia sông cũng chẳng phải Thiên Đường
Cho người nghèo, cho những ai có làn da không trắng
Kể cả khi da bạn trắng
Cả trăm người cũng chỉ một người giàu thôi
Câu chuyện bên bờ sông Rio Grande
Câu chuyện thời nay, câu chuyện muôn thuở

Vừa rồi có hai cha con từ El Salvador chết đuối nằm úp mặt bên
bờ sông Rio Grande khi cố bơi qua để vào Mỹ.

Thứ Hai, 17 tháng 6, 2019

Ai đúng? Ai sai?


Có một hội thảo quốc tế về Kinh Thánh. Đến chủ để Thiên Đàng, với cảnh Adam và Eva – không quần áo - dạo chơi trong vườn Eden, đại biểu Pháp nói: - Hãy xem đôi trai gái này lãng mạn và say đắm làm sao! Tất nhiên đây là Pháp rồi.

Đại biểu Anh nói: - Chỉ có một quả táo. Và chàng trai nhường nó cho cô gái. Đó chắc chắn phải là một gentlement người Anh.

Đại biểu Phần Lan nói: - Chỉ có trai gái Phần Lan mới trần truồng bên nhau tự nhiên như thế. Tất nhiên đây là khu vườn của một sauna để người ta thư giãn sau khi tắm hơi.  

Đại biểu Hà Lan nói: - Không còn gì nghi ngờ nữa, đây chắc chắn là một nhà thổ ở Amsterdam.

Đại biểu Liên Xô nói: - Nơi này nghèo tới mức không có quần áo mặc, còn táo thì chỉ có một quả cho hai người. Vậy mà họ vẫn tin chắc đó là Thiên Đàng. Các vị thử nghĩ xem trên thế giới ngoài Liên Xô ra thì còn có nơi nào như thế nữa không?

Đó là một truyện cười của người Nga thời Liên Xô (có một chút “bịa” thêm của người viết!). Ở đời, cùng một sự việc nhưng bao giờ cũng có chuyện mỗi người nhìn một cách cả. Không ai tuyệt đối đúng hay sai cả. Ở một xã hội độc tài – bây giờ vẫn còn nhiều xã hội như vậy - vị vua, giáo chủ hay vị lãnh tụ sẽ kết luận kiểu như đây là Thiên Đàng và ai không tin sẽ bị trừng phạt. Ở xã hội dân chủ, người ta sẽ tranh luận. Nếu cuối cùng không thể đồng ý với nhau thì người ta sẽ nói lets agree to disagree – tạm dịch là “hãy đồng ý với nhau rằng chúng ta không nhất trí với nhau” và vui vẻ kết thúc thảo luận.  

Chủ Nhật, 16 tháng 6, 2019

Thiếu cái gì?

Vừa có chuyện một đoàn cấp Bộ về tỉnh Vĩnh Phúc để thanh tra về xây dựng. Ở một huyện, có vẻ như đoàn “đánh hơi” được một số điều bất bình thường. Ví dụ như tại sao một công ty khá nhỏ mà lại liên tục được địa phương trao nhiều hợp đồng bao gồm một số có giá trị khá lớn. Báo chí nói đoàn dường như đã đòi một khoản tiền khá lớn - khoảng hơn 20 tỷ đồng (1 triệu USD) – có thể hiểu rằng đó là cái giá để bỏ qua vụ việc này. Đối với một anh taxi, một bà bán hàng ở chợ hay một bác về hưu đang chơi cờ ở công viên, đây là chuyện “biết rồi – khổ lắm – nói mãi”. Tham nhũng ngày nay đã thành chuyện bình thường, chuyện hàng ngày. Người dân không chỉ “nghe nói” mà đa số họ đều đã từng bị viên chức chính quyền “vòi tiền” như vậy. Cái nguy kịch ở đây là người ta dường như đã chấp nhận chuyện đó và chung sống với nó. Cái chuyện “thường ngày” này có từ bao giờ? Truyện Kiều có chuyện gia đình Thúy Kiều bị vu oan, bị sai nha tra khảo, đánh đập cho đến khi hiểu ra rằng “có ba trăm lạng việc này mới xong”. Tục ngữ cổ Việt Nam có câu Nén bạc đâm toạc tờ giấy. Thời thuộc địa Pháp, nhà văn Nguyễn Công Hoan có kể chuyện một vị quan cấp dưới cho vợ mình đi “hầu hạ” vị quan cấp trên để mong lên chức. Như vậy, tham nhũng là chuyện vẫn có từ xưa, từ thời phong kiến. Khi đó, ông quan huyện toàn quyền quyết định mọi việc trong huyện của ông ta. Tương tự, ông quan tỉnh có toàn quyền trong tỉnh mình. Ông vua có toàn quyền trong nước. Vua được coi là “con Trời”, thay Trời cai trị dân. Ý vua là ý Trời. Các quan có thể “khuyên can” vua nhưng không có quyền quyết định. Ít ai dám can ngăn vua vì có thể bị mất chức, thậm chí mất mạng. Vị nào quyết liệt hơn thì chỉ còn cách “treo ấn từ quan”, về quê ở ẩn, sống nghèo khổ. Công cụ ngăn ngừa tham nhũng ở thời ấy có lẽ chủ yếu là những lời dạy của Nho Giáo như “phú quý bất năng dâm” – đại ý là giàu sang tiền bạc không thể làm lung lạc. Nhưng đối với đa số, tiền bạc sang giàu vẫn hấp dẫn hơn đạo lý người quân tử. Sau thời phong kiến – thuộc địa là cuộc chiến tranh 30 năm.Trong chiến tranh, quan tâm hàng đầu của người ta là “sống sót”, chứ không phải là tiền bạc. Vì thế mà chuyện tham nhũng hầu như không có. Sau khi chiến tranh kết thúc năm 1975, khoảng thời gian 10-15 năm sau đó là thời kỳ nghèo đói nhất. Kinh tế kiệt quệ nên cuộc sống vẫn chỉ là làm sao tồn tại với khẩu phần lương thực vô cùng ít ỏi được chia đều cho mọi người. Không còn gì để tham nhũng cả. Sang thời kỳ “đổi mới”, kinh tế và sở hữu tư nhân bắt đầu được cho phép và khuyến khích. Người ta được tự do làm giàu. Như con quỷ thoát ra sau khi bị nhốt kín suốt thời kỳ chiến tranh và XHCN “bao cấp”, lòng tham nhanh chóng chiếm lĩnh vị trí thống trị. Tiền bạc trở thành quan tâm hàng đầu. Nhưng xã hội lại không có công cụ hữu hiệu nào để kiểm soát lòng tham ấy. Xã hội về cơ bản trở lại giống như thời phong kiến. Cái khác nói nôm na là thay vì một ông vua thì nay là một vị “vua tập thể”, một nhóm người. Có “vua lớn” ở cấp quốc gia, “vua nhỡ” ở tỉnh, “vua con” ở huyện xã. Tư duy vẫn như cũ, nghĩa là làm vua là để cai trị chứ không phải là phục vụ. Không có cơ chế nào hữu hiệu để giám sát các vua cả. Cách quản lý như thế là môi trường màu mỡ cho việc lạm dụng quyền lực mà tham nhũng là phổ biến nhất. Đồng tiền  lên ngôi chúa tể, đạo lý Nho Giáo truyền thống trọng nghĩa khinh tài không còn. Gần đây, có lẽ vì tham nhũng quá trầm trọng, người ta bắt đầu trừng phạt một số vụ lớn. Khó có thể đo lường tác dụng của “chiến dịch” này. Việc vừa xảy ra ở Vĩnh Phúc có thể là một dấu hiệu cho thấy tác dụng của những trừng phạt ấy là chưa đủ để răn đe. Vậy phải làm gì?    Các nghiên cứu về tham nhũng thường chỉ ra biện pháp “3 không”: Phải làm sao để người ta (1) không cần tham nhũng; (2) không muốn tham nhũng; (3) không thể tham nhũng. Có thể hiểu đại khái là một viên chức nhà nước có lương tốt sẽ không cần tham nhũng. Người đó sẽ không muốn tham nhũng vì lý do đạo đức, sợ bị trừng phạt. Người đó sẽ khó có thể tham nhũng do xã hội có cơ chế kiểm soát chặt chẽ và hữu hiệu. Như vậy sẽ phải cải thiện thu nhập cho công chức, tăng cường giáo dục cho trẻ em và các biện pháp trừng phạt. Cuối cùng – điều khó và quan trọng nhất – là thay đổi cơ chế quản lý xã hội để có thể giám sát chặt chẽ và hữu hiệu hoạt động của viên chức nhà nước. Đã có biết bao nhiêu khóa học tập, tham quan, khảo sát, hội thảo trong ngoài nước, bao nhiêu dự án, bao nhiêu chuyên gia giỏi nhất đã đến rồi. Thế giới có rất nhiều mô hình chống tham nhũng hiệu quả mà các cơ quan có trách nhiệm hẳn đã đến học hỏi và tham khảo rồi.  Như vậy là người ta đều biết cả rồi và rất rõ nữa. Người ta hẳn cũng biết rõ vướng mắc nằm ở chỗ nào nhưng không ai dám nói ra cả. Người ta sợ. Nếu cứ tiếp tục như hiện nay thì tham nhũng sẽ bào mòn hết nguồn lực tinh thần và vật chất của xã hội. Đất nước sẽ tụt hậu, thậm chí có thể sụp đổ. Phải chăng đã đến lúc phải có một cuộc cách mạng mới – có người gọi là “Đổi Mới 2”. Cuộc đổi mới 1986 cơ bản chỉ là kinh tế. Đổi Mới 2 sẽ phải là toàn diện. Trong diễn văn nhậm chức, vị tổng thống mới của Ucraina có nói đại ý rằng tại các cơ quan nhà nước đừng treo ảnh ông mà hãy để ảnh con cái mình, để mỗi sáng mỗi người nhìn vào ảnh chúng và tự hỏi mình có muốn chúng được thừa kế một đất nước văn minh và phồn vinh hay không, hay là để chúng phải nguyền rủa cha anh vì để lại cho chúng một đất nước bất công, tham nhũng, hỗn loạn và nghèo khổ. Đã có đủ mọi điều kiện cho cuộc Đổi Mới 2. Cái còn thiếu là sự dũng cảm.


Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2019

Con đường tiến bộ xã hội


Có tin Bắc Hàn vừa xử tử một số quan chức cao cấp vì tội “làm cuộc đàm phán Trump – Kim ở Hà Nội thất bại”. Thực hư thế nào thì khó biết, vì đó là Bắc Hàn. Làm cho lãnh tụ không vừa ý là đủ để cấu thành một trọng tội, đáng tử hình mà không cần xét xử gì cả.Thời phong kiến xưa kia, tội đó gọi là “khi quân”, tạm gọi là thiếu kính trọng, coi thường, xúc phạm vua. Bắc Hàn là hình ảnh một xã hội quân chủ phong kiến hà khắc, cha truyền con nối. Chuyện này nhắc nhở rằng chủ tịch Kim là một hoàng đế tàn bạo, chứ không phải là “một người đàn ông bình thường” như có lúc người ta tưởng khi xuất hiện ở Hà Nội hồi đầu năm nay. Đi tới một xã hội dân chủ là một con đường dài gập ghềnh. Nam Hàn cho đến gần đây cũng đã từng phải trải qua một thời kỳ “đẫm máu”, hàng trăm người biểu tình bị tàn sát, mấy vị tổng thống bị ám sát, tử hình hay tù chung thân mới có được một xã hội phồn vinh và dân chủ như bây giờ. Nước Nga phá bỏ chế độ chuyên chế Nga Hoàng bằng cách mạng cách đây một trăm năm. Sau đó thì vẫn là một xã hội không kém hà khắc, nhất là ở thời lãnh tụ Stalin. Liên Xô tan rã năm 1991. Ngay sau đó, một hiến pháp dân chủ ra đời. Vài chục năm sau đó, phồn vinh và dân chủ vẫn chưa thấy đâu. Tham nhũng và khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng. Nhiều người Nga bắt đầu thấy nuối tiếc quá khứ khi Liên Xô là một siêu cường, cuộc sống không giàu có nhưng khá đầy đủ, xã hội bình đẳng, có tôn ti trật tự. Thậm chí dân Nga còn quay lại tôn vinh Stalin, người đã từng bị chính họ lên án nặng nề vì độc tài và tàn bạo. Ý tưởng dân chủ xuất hiện từ thời cổ Hy Lạp. Nhưng cả ngàn năm sau đó, các nước Tây Âu vẫn phải trải mấy thế kỷ “đêm trường trung cổ” dưới áp bức nặng nề của vua chúa và nhà thờ. Để tiến tới dân chủ, cuối thế kỷ 18, dân Pháp đã phải làm cách mạng lật đổ chế độ phong kiến, chặt đầu nhà vua. Sau rất nhiều thăng trầm sau đó, dân Pháp mới thực sự có dân chủ. Do đó những nước có chế độ phong kiến, rồi thuộc địa cho đến tận gần đây như TQ hay VN thì “nhảy một phát” – như nhiều người mong muốn - lên hàng các nước giàu có, văn minh, dân chủ là không dễ, thậm chí có lẽ là không thể. Những di sản cũ nhiều thế kỷ không dễ “biến mất” nhanh như thế. Tòa lâu đài nguy nga của phồn vinh, văn minh, dân chủ không dễ xây như thế. Dân chủ không phải là một thiên đường dưới sự trị vì của một vị “vua hiền” thay dân chịu trách nhiệm về mọi việc, còn người dân chỉ việc “hưởng thái bình”. Cần có thêm thời gian và cố gắng bền bỉ của tất cả mọi người để tiến dần từng bước một. Nhưng ít nhất, nếu đất nước không đến nỗi quá tệ như xã hội Bắc Hàn thì không việc gì phải bi quan cả. Cây nhỏ dần dần sẽ lớn, ra hoa và kết quả.  

Thứ Ba, 28 tháng 5, 2019

Bài học cho mọi người


Vừa rồi có một phim tài liệu mới của Mỹ về chiến tranh Việt Nam. Phim khá lớn, dài 10 tập, xem mất 18 giờ và mất tới 10 năm để hoàn thành. Cuộc chiến VN đã kết thúc cách đây gần nửa thế kỷ rồi. Trong khoảng thời gian này, người Mỹ và phương tây đã làm không biết bao nhiêu bộ phim về cuộc chiến này. Năm 1980 đã từng có một phim dài tới 26 tập của một đạo diễn Canada. Biết rồi, khổ lắm, nói mãi là câu người Việt có thể nói về chuyện này. Nhưng đối với người Mỹ, cuộc chiến này quá dài, quá phức tạp, quá khổ đau, quá nhiều mất mát, chia rẽ, tranh cãi và nhiều thứ quá nữa đến mức họ khó có thể ngừng suy ngẫm về nó. Có một điều tưởng như là nghịch lý. Ấy là càng lùi xa về quá khứ, sự việc dường như lại rõ hơn. Những phim trước kia chỉ nói về người Mỹ. Phim này nói nhiều cả về người Việt, nhất là những người từng bị coi là “kẻ thù đáng ghét nhất” – Việt Cộng và lính Bắc Việt. Có 2 tuyến nhân vật – một bên là Mỹ, bên kia là Việt – là người thật, bằng xương thịt, có tên tuổi, có câu chuyện cuộc đời họ, có lời họ nói. Đó là chuyện thật chứ không phải là Rambo, một lính Mỹ tưởng tượng hồi đầu sau chiến tranh, một anh lính Bắc Việt vô hồn, hay một anh Việt Cộng sắt đá . Là “người thật, việc thật” nên nó sinh động, đôi khi thật cảm động. Một bà mẹ Mỹ có con ra chiến trường thì cũng chẳng khác gì bà mẹ Việt, cũng mòn mỏi đêm ngày mong ngóng tin con. Thanh niên Mỹ lứa tuổi 18 đôi mươi ngày đó cũng thật lòng yêu nước và ngây thơ, bỏ cả vào đại học để ra trận, để “ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản, bảo vệ thế giới tự do” thì cũng không khác gì cậu bé Bắc Việt nhét cục gạch vào túi cho “đủ cân” để được vào bộ đội, ra chiến trường “chống đế quốc Mỹ xâm lược, vì độc lập tự do của Tổ Quốc”. Những lính Mỹ trẻ măng ra trận lần đầu trước mưa đạn từ phía đối phương mà cứ thế xông lên chiếm cho bằng được đỉnh cao của ngọn đồi không tên nào đó thì cũng gan dạ chẳng kém những người lính Bắc Việt hành quân dưới mưa bom bão đạn trên đường mòn Hồ Chí Minh. Anh thanh niên Mỹ trốn quân dịch chạy sang Canada thì cũng không khác anh lính Bắc Việt trẻ đào ngũ ở trận chiến Ia Drang. Ở đâu cũng có người như thế, và chuyện đó thường thôi. Sau chiến tranh, những cựu binh Mỹ đầu tiên quay lại chiến trường xưa. Họ gặp những cựu chiến binh Bắc Việt, những người đã từng bắn vào họ khi xưa. Sau ít phút ngờ vực, đôi bên nhanh chóng nhận ra rằng họ chẳng khác nhau mấy, cũng giản dị, chân thật, ấm áp, rất “con người” cả. Và thời gian cũng đã đủ lâu, đủ dài để người ta ngẫm nghĩ về cuộc chiến. Người Mỹ tự hỏi rằng bấy nhiêu mất mát, khổ đau cuối cùng thì để làm gì? Đạt được gì? Có đáng phải thế không? Những người “phía bên kia” cũng hỏi những câu tương tự. Hàng triệu người phải hy sinh có quá đắt không? Liệu có con đường khác không? Cuối cùng thì người dân ở đâu cũng đều có những mong muốn như nhau. Rất giản dị. Đó là cơm ăn áo mặc, cuộc sống bình yên, yêu và được yêu. Dù là ở những tỉnh lẻ đâu đó ở Mỹ hay là những vùng quê Việt Nam thì cũng không khác nhau là bao. Cách đây 2500 năm, triết gia TQ cổ đại Lão Tử nêu ra ý tưởng “vô vi” cho quản trị xã hội. Vô vi có nghĩa là thuận theo tự nhiên, không cần cố can thiệp vì mọi việc cuối cùng sẽ “đâu vào đấy” cả. Bộ phim kết thúc bằng bài hát Let It Be của ban nhạc Beatles lừng danh. Let it be cũng có nghĩa là hãy để mọi việc tự trôi, theo lẽ tự nhiên. Phải chăng đó là một bài học lớn từ chiến tranh Việt Nam, cho thế giới, cho tất cả mọi người?      

Thứ Ba, 14 tháng 5, 2019

Ai thắng, ai thua?


Hôm qua, dân TTCK New York bàng hoàng khi thấy chứng khoán lao dốc “không phanh”. Không biết có bao nhiêu tỷ đô-la đã “biến mất” sau một đêm yên lành ở NY. Đó là kết quả đòn trả đũa của TQ bằng cách áp thuế lên gần trăm tỷ đô-la hàng Mỹ. Không biết TT Mỹ có còn “hỷ hả” không như khi mới đây ông áp một mức thuế cao ngất lên hàng trăm tỷ đô-la hàng TQ. Không biết liệu dòng tiền-hàng giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới này có vì thế mà giảm sút nhiều không? Đã từ lâu rồi, hàng triệu dân Mỹ đã quá quen với việc tiêu dùng “xả láng” rất nhiều thứ hàng khá tốt với giá “cực rẻ” bởi chúng được Made in China rồi. Còn hàng trăm triệu dân TQ vẫn ngày ngày chăm chỉ như đàn kiến ở các công xưởng khổng lồ để làm ra Iphone và hàng vạn thứ khác cho dân Mỹ - và cả thế giới nữa – xài. Có lẽ chẳng ai có thể dừng cái chu trình sản xuất-xuất nhập khẩu - tiêu dùng đó cả. Nhưng “bàn tay vô hình” sẽ điều chỉnh cuộc chơi này. Ở TQ sản xuất có thể sụt giảm một chút, thất nghiệp tăng một chút. Ở Mỹ thì dân sẽ phải mua hàng giá cao hơn. Cả dân TQ và Mỹ sẽ chẳng được lợi lộc gì. Còn giới lãnh đạo hai nước có thể đạt được những mục tiêu chính trị gì thì dân thường không biết mà cũng chẳng quan tâm. Dù lãnh đạo có cho những mục tiêu của họ là “vì nước – vì dân”, người ta vẫn nghi ngờ - mà thường là đúng – rằng chúng chỉ là những chiêu trò ích kỷ mà thôi. Chiến tranh - dù là thương mại hay bom đạn – nhiều khi không rõ bên nào thắng cuộc. Nhưng “bên thua cuộc” thì bao giờ cũng rất rõ. Đó là hàng triệu thường dân bị thiệt thòi trong chiến tranh thương mại, hay hàng triệu binh lính và thường dân phải chịu tổn thất hy sinh trong chiến tranh bom đạn. Giới tinh hoa lãnh đạo giàu có thì không hoặc rất ít bị ảnh hưởng. Cho nên họ chẳng thèm quan tâm.  

Thứ Bảy, 11 tháng 5, 2019

Nên đi đâu, đến đâu?

  Gần đây có đến vài diễn đàn lớn về phát triển như làm sao để thúc đẩy khu vực tư nhân hay phát triển công nghệ. Có vẻ như động lực chính của thời kỳ đầu như lao động và tài nguyên rẻ đang yếu dần, đà phát triển đang chững lại và người ta muốn tìm giải pháp cho nó. Có thể nhận thấy có ít hơn những chỉ thị và hô hào mà bắt đầu có tranh luận. Tuy nhiên, mọi tranh luận dường như vẫn ở trong một “khuôn khổ” định sẵn nào đó, không phải là trong một văn bản chính thức nào, mà có lẽ là ở ngay trong “não trạng” người phát biểu. Cuối cùng thì các diễn đàn kiểu như thế này cũng sẽ có một số tác động nào đó. Có lẽ sẽ có người tự hỏi tại sao lại không nên/không thể có những diễn đàn tự do và không e ngại sợ hãi về những chủ đề rộng hơn, giống như một cái nhìn toàn cảnh để có thể thấy đất nước xuất phát từ đâu, từ đó nên đi về đâu, tại sao và làm thế nào, v.v. Thế giới có khá nhiều hình mẫu phát triển có thể tham khảo, học hỏi. Cũng chỉ nên và chỉ có thể như thế thôi bởi “trời sinh ra” không ai giống ai, không nước nào giống nước nào hoàn toàn cả. Có những ví dụ “sờ sờ” nay trước mắt. Bắc Hàn quả thực có một sự “ổn định” với một “chính phủ mạnh” suốt gần bảy chục năm qua. Cái giá phải trả là mức sống rất thấp của dân kể cả về kinh tế và dân trí, thậm chí là có cả nạn đói, sự cô lập gần như hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Hình ảnh đối lập hoàn toàn ở ngay bên cạnh là Nam Hàn với nền kinh tế thuộc tốp đầu thế giới, cả công nghệ và dân trí phát triển cao, mức sống cao, có một hộ chiếu cực mạnh cho phép đi tới hầu hết các nước trên thế giới mà không cần visa. Có một điểm dễ nhận thấy của hệ thống chính trị Nam Hàn, đó là sự “bất ổn định” của chính phủ. Đã nhiều lần, người ta “lôi cổ” những nhà lãnh đạo một thời được coi là có nhiều công lao ra để xét xử lại công/tội, và kết quả là có những vị phải ngồi tù. Gần đây nhất, một vị tống thống nữa bị hạ bệ, phải ra tòa, phải vào tù vì một vài “tội” mà so với những nước như TQ, Nga hay VN, chúng chỉ là “muỗi” mà thôi. Nhưng với tinh thần “thượng tôn pháp luật, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không ai có thể đứng trên pháp luật’ như người ta hay nói gần đây thì có lẽ Nam Hàn chính là một ví dụ tốt cần học tập. Nước hàng xóm khổng lồ phía bắc dường như vẫn “ổn đinh” và họ mong muốn như vậy dưới một sự “lãnh đạo” vô thời hạn của nhà lãnh đạo đương nhiệm. Có gì liên quan không khi mà gần đây tốc độ phát triển của TQ đã chững lại, nhiều công ty lớn có dấu hiệu muốn dời đi nơi khác, vấn đề môi trường đang lớn dần lên và khả năng một thảm họa thực sự không phải là điều có thể “bỏ ngoài tai” nữa, sự bành trướng kinh tế ồ ạt bằng những khoản tiền khổng lồ ở nước ngoài đón nhận cả sự “hoan nghênh” lẫn hoài nghi và phản đối. Ở TQ, luôn có sự “nhất trí cao” đơn giản vì không ai có thể/có quyền hoài nghi chứ chưa nói đến phản đối. Khi chính quyền cực mạnh và tập trung, với một đường lối “đúng”, ít nhất về kinh tế, như ở TQ cho tới giờ thì có thể có một sự phát triển ngoạn mục. Nhưng nếu sai thì sao, và nhất là khi không có ý kiến phản biện? Đó là điều đã xảy ra với Liên Xô: sự “sụp đổ” vào năm 1991. Ở những thời điểm hiểm nguy, khẩn cấp như chiến tranh, một sự lãnh đạo mạnh và nhanh, không bàn cãi nhiều có thể là cần thiết, dù biết rằng kết quả có thể phải trả bằng sinh mạng của hàng ngàn, hàng vạn, thậm chí hàng triệu người. Trong điều kiện hòa bình, những quyết sách lớn liên quan đến cuộc sống của hàng triệu người cần có ý kiến rộng rãi và thật sự của toàn dân. Gần đây, dân Anh quyết định đi hay ở lại EU qua một cuộc trưng cầu dân ý. Quyết định “ra đi” nay lại gây tranh cãi vì nhiều người có vẻ đã “nghĩ lại’ và nay lại muốn “ở lại”. Điều đó cho thấy là không phải lúc nào người dân bình thường cũng biết rõ mình muốn gì. Song điều đó không thể dẫn đến việc cần có một nhóm nhỏ một số người “sáng suốt” để quyết định thay cho hàng triệu người khác, kể cả khi đám đông dân chúng cứ “trống đánh xuôi kèn thổi ngược” như ở Anh bây giờ. Liệu có ai nghĩ rằng chính cái cách đó – gọi là dân chủ hay là gì tùy bạn – lại là một cách quản trị đất nước tốt, dẫn đến kết quả nước Anh là một xã hội đáng mơ ước, là nơi mà hầu như tất cả những gia đình “có điều kiện” ở VN đều muốn gửi con em sang học tập, làm việc và sinh sống? Đó là một cách quản trị “chậm nhưng chắc”. Có lẽ điều quan trọng hơn cả là hệ thống đó sẽ không cho phép một kẻ - có thể coi là tài năng xuất chúng – như Hitler lên nắm quyền, hoặc có lên nắm quyền cũng không thể đưa dân tộc mình và nhiều dân tộc khác vào “chỗ chết” như ông ta đã từng làm trong Thế Chiến 2 mà không ai ở Đức khi đó dám “có ý kiến khác”. Con đường VN đang đi – cũng như con đường của các dân tộc khác - đều có nguyên nhân không hề đơn giản. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố vô cùng phức tạp như kinh tế, lịch sử, địa lý, khí hậu, văn hóa, trình độ phát triển, bối cảnh thế giới, v.v. kể cả những yếu tố tưởng như là ‘tình cờ”. Cho nên có lẽ không mấy có ích khi cứ mãi tranh luận theo kiểu “khi đó mà làm như thế này mà không như thế kia, thì bây giờ thì đất nước sẽ được như các nước abc, rồi cứ đổ lỗi cho một nhóm người, thậm chí là một cá nhân nào đó. Chẳng có ai có thể dẫn dắt một dân theo ý riêng của mình.  Nên chăng là tạm bỏ qua quá khứ - vì có thay đổi được đâu – bình tĩnh, kỹ lưỡng cân nhắc hiện tại, tương lai gần và tương lai xa hơn để thấy đất nước nên đi về đâu, muốn đến cái đích nào, muốn được như nước nào. Thực ra thì chính Cụ Hồ cũng đã từng có một tầm nhìn cho đất nước như thế, được thể hiện rõ trong những tài liệu lịch sử về thời kỳ đầu của VNDCCH, còn khá đủ trong lưu trữ.                          

Thứ Ba, 7 tháng 5, 2019

Tản mạn ngày chiến thắng Điện Biên Phủ

Truyền hình NHK Nhật có một phóng sự về Đà Nẵng. Một nhóm học sinh đang tập nhảy múa rất vui vẻ ở công viên 29/3. Khi được hỏi 29/3 là ngày gì, các em ngơ ngác nhìn nhau và trả lời là không biết. Ở một chỗ khác, một bác lớn tuổi cho biết còn nhớ rõ ngày 29/3/1975. Theo ông trước ngày đó có đánh nhau to, súng nổ nhiều và rất nhiều xe tăng chạy qua. Đến chiều 29/3, khi hết tiếng súng, ông hiểu là cuộc chiến ở Đà Nẵng đã kết thúc. Ở bãi biển, khi bình minh đang lên, một nhóm các cô dâu rạng rỡ trong váy cưới đang chụp ảnh cùng chú rể giữa một đàn chim bồ câu. Không biết các cô gái và chàng trai hạnh phúc kia có biết rằng đúng chỗ họ đang đứng hơn năm mươi năm trước vào sáng ngày 8/3/1965, thủy quân lục chiến Mỹ ào ạt đổ bộ vào bờ biển Đà Nẵng, mở đầu thời kỳ ác liệt nhất của chiến tranh Việt Nam. Ở một ngõ nhỏ sâu trong phố, vài họa sỹ đang vẽ lên tường ngõ những bức tranh làng quê xưa bên cạnh những bức “tưởng tượng” về tương lai thanh bình tươi sáng của thành phố. Liệu có ai đó nghĩ rằng sự hồn nhiên ‘thiếu hiểu biết lịch sử” của các cô bé cậu bé tại cái công viên 29/3 kia hay là cái ‘nhận thức không phân biệt ta thắng/địch thua của cụ ông trên kia có khi lại là hay không? Ngày hôm nay 65 năm trước, quân Pháp hạ vũ khí, cầm cờ trắng ra hàng ở Điện Biên Phủ. Gần đây, ngay ở Điện Biên Phủ, gần hầm chỉ huy của tướng De Castries, theo sáng kiến của một cựu binh Pháp, người ta xây một ngôi mộ tưởng niệm những binh sỹ Pháp chết trận. Ngôi mộ được trông coi chăm sóc cẩn thận bởi một cựu quân nhân Việt Nam. Phải chăng đó là những cách tốt hơn để hàn gắn vết thương lớn về tinh thần gây ra bởi cuộc Chiến Tranh Việt Nam – theo cách gọi của Mỹ hay là Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước – cách gọi chính thức ở Việt Nam?     

Thứ Bảy, 4 tháng 5, 2019

Kiến và Châu Chấu

Ngày Quốc Tế Lao Động 1/5 vừa rồi, ở Paris và nhiều nơi ở Pháp, những người Áo Vàng lại xuống đường biểu tình. Vẫn là những cảnh mà thế giới đã “quen thuộc” từ nhiều tháng nay: đám đông áo vàng tay không đụng độ với cảnh sát có trang bị xe bọc thép, vòi rồng, súng bắn đạn cao su, khói lựu đạn cay mù mịt, những đám cháy bùng lên từ những chiếc xe hơi bị đốt, cửa hàng bị đập phá, nhiều người chống đối bị bắt. Vị lãnh đạo nước Nga có vẻ đã có những tuyên bố đại ý như: mọi người hãy nhìn xem! Các vị có muốn như ở Paris không? Có vẻ ý ông là tại sao các vị lại không bằng lòng với sự “ổn định” ở Nga mà lại thích “dân chủ” kiểu Phương Tây mà theo ông chỉ là sự hỗn loạn. Người biểu tình Pháp là những người tầng lớp “bình dân”. Họ bất bình vì cuộc sống khó khăn, giá cả những mặt hàng cơ bản như xăng dầu tăng vọt. Vừa rồi sau khi nhà thờ Đức Bà Paris bị hỏa hoạn, một số “đại gia” trong số những người giàu nhất nhanh chóng tuyên bố đóng góp hàng chục, hàng trăm triệu đô-la để sửa chữa nhà thờ. Sự “hào phóng” này có vẻ chẳng những không được khen ngợi mà lại còn như “đổ thêm dầu vào lửa”, ngọn lửa tức giận về sự bất công, khoảng cách giàu – nghèo quá lớn trong xã hội Pháp. Có những người Nga đã lên truyền hình – đây là những kênh truyền hình độc lập, không do nhà nước quản lý – và đã “trả lời” lãnh đạo Nga, đại ý như: có, chúng tôi rất muốn được như ở Paris, ở Pháp. Có thể hiểu rằng họ muốn được quyền phản đối khi cuộc sống của họ - đa số là những người nghèo, có nhiều triệu người như vậy – bị những quyết định của những công ty lớn, như là xăng dầu hay điện – hẳn là phải có sự đồng ý của nhà nước -làm cho trở nên rất khó khăn. Chuyện này nghe “quen quen” phải không? Nếu xem tờ báo mạng – tờ báo “được nhiều người đọc nhất”, theo lời tự quảng cáo – thì cũng đang có câu chuyện về bản chất là tương tự. Trong lúc đang có một hội thảo lớn “tầm quốc gia – quốc tế” về chủ đề làm thế nào để doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh, hai “ông lớn nhà nước” là xăng dầu và điện ‘tranh thủ tăng giá ào ạt! Đa số người dân “thấp cổ bé họng” chỉ còn biết ngao ngán thở dài và cắn răng chịu đựng như họ vẫn cam chịu đựng như thế từ bao đời nay rồi. Một số người cũng “có ý kiến” ở trên tờ báo mạng kia. Có lẽ đó chỉ là những ý kiến yếu ớt, chẳng ai thèm nghe. Từ xa xưa, dân Việt đã hiểu rằng đó là chuyện vô ích, chuyện “con kiến kiện củ khoai”. Những cũng chính dân Việt còn có câu:

Nực cười châu chấu đá xe
Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe ngiêng

Chẳng có gì là mãi mãi, là không thể thay đổi cả.

Thứ Ba, 30 tháng 4, 2019

Tản mạn ngày cuối tháng Tư

Hôm nay là ngày 30/4. Đó là một trong những ngày gợi cho người Việt những suy nghĩ rất khác nhau bởi vì dù đa số dân Việt sống ở trong mảnh đất nhỏ hình chữ S, vẫn phải kể đến nhiều triệu người Việt khác đang sống ở khắp nơi trên thế giới mà nhiều nhất là ở Mỹ. Thế giới dường như vẫn bàng hoàng về vụ đánh bom tự sát ở Sri Lanka. Người ta thấy khó hiểu vì sao trong số những kẻ đánh bom có cả hai anh em con một tỷ phú giàu có bậc nhất Sri Lanka? Sao họ không “biết sướng” mà hưởng thụ cái khối tài sản khổng lồ, niềm mơ ước của đa số chúng ta mà lại đi lao vào chỗ chết như vậy? Bỏ qua chuyện phải trái đúng sai, thứ chỉ gây tranh cãi muôn thuở mà chỉ nhìn vào sự kiện thì có thế thấy xưa nay vẫn có những người như thế. Đối với họ, lý tưởng là cao nhất, là cái mà vì nó họ có thể bình thản hy sinh tất cả. Đức Phật chính là một ví dụ. Ngài từ bỏ vị trí một hoàng tử, một vị vua tương lai, để trở thành một “kẻ ăn mày”, ngày ngày khất thực để suy nghĩ về lý tưởng “giải thoát” loài người. Sri Lanka chỉ là một ví dụ tiếp theo của một mâu thuẫn nhiều thế kỷ giữa Hồi Giáo và Thiên Chúa Giáo. Nói đúng hơn thì có lẽ đó là những nhóm cực đoan nhất trong hai tôn giáo này. Không ai biết được mâu thuẫn Hồi Giáo – Thiên Chúa Giáo bao giờ sẽ chấm dứt. Vừa rồi mâu thuẫn 70 năm Nam – Bắc Triều Tiên mới lóe lên tia hy vọng ở Hà Nội để rồi lại nhanh chóng vụt tắt. Hôm nay ở Hà Nội hay tp HCM hình như không thấy có những hoạt động rầm rộ kỷ niệm ngày giải phóng Miền Nam như những năm trước đây. Dân trong nước còn bận về quê hoặc đi nghỉ ở bãi biển hay vùng núi. Ở “bên kia”, không biết không khí trong cộng đồng mấy triệu người Việt hải ngoại – số người bằng dân số của nhiều quốc gia – như thế nào trong ngày mà ít nhất một số người coi là “ngày quốc hận”. Cũng không ai biết bao giờ thì câu chuyện “ngày giải phóng vs ngày quốc hận” sẽ thành chuyện quá khứ, chuyện lịch sử. Vừa rồi một danh hài trẻ trở thành tổng thống Ucraina. Trong không khí “ăn mừng” sau khi nghe thông báo kết quả bầu cử, ông có nói đại ý là “khi tôi hãy còn là một người dân thường, chưa chính thức thành tổng thống, tôi muốn nói với nhân dân các nước thuộc Liên Bang Xô Viết cũ: hãy nhìn chúng tôi đây này, mọi sự đều có thể xảy ra! Hiểu rộng hơn một chút thì Việt Nam, TQ, Bắc Hàn, Cuba cũng có thể coi là thuộc khối LX cũ mà khi đó có tên chính thức là “phe XHCN”. Người Nhật từng coi Mỹ là kẻ thù số một cản trở việc thực hiện giấc mơ bá chủ châu Á – Thái Bình Dương của họ. Khi giấc mơ đó tan tành dưới hai quả bom nguyên tử của Mỹ và cuộc tấn công vũ bão của Hồng Quân LX vào đội quân Quan Đông cả triệu người tinh nhuệ nhất, người Nhật dường như đã tỉnh giấc, hiểu rằng họ đã sang một thời kỳ hoàn toàn mới, một cơ hội mới. Hàng triệu người Nhật lại đoàn kết, học tập và lao động miệt mài ngày đêm để rồi từ một đống tro tàn đổ nát, sau hai chục năm họ đã thành một nước phát triển văn minh. Năm 1989, sau khi bức tường Berlin sụp đổ, hai vùng Đông và Tây Đức sau bốn chục năm bị chia cắt lại hòa vào nhau “như chưa từng có cuộc chia ly”. Ngẫm nghĩ thì thấy dân Nhật và dân Đức quả là khôn ngoan. Họ hiểu rất rõ cái câu “mèo trắng hay mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột” trước cả ô. Đặng ở TQ. Không biết chừng thì chính ô. Đặng là người học được điều đó từ người Nhật và người Đức cũng nên.  Sau nhiều ngày nóng “như đổ lửa”, sáng nay có cơn mưa lớn ào ạt đổ xuống.  Trời đất bỗng tối sầm rồi lại sáng lên, dịu mát và trong lành lạ thường. Hình như quy luật của trời đất là thế. Cứ cái gì đã tới ‘cùng cực” thì nó lại trở về cái đối nghịch của nó. Nếu khôn ngoan mà sớm hiểu được cái lẽ đó thì người ta có thể giúp đẩy nhanh quá trình. Còn nếu cứ “khăng khăng” với “chân lý” của mình thì sớm muộn sẽ trở thành vật cản cho sự dịch chuyển tự nhiên không có gì cản nổi của Thiên Mệnh mà thôi.     

Thứ Hai, 15 tháng 4, 2019

Một cuộc “cách mạng chậm”


Một nhóm học sinh phổ thông vừa mới chế ra “bãi gửi xe thông minh”. Một em học sinh ở một vùng quê Nam Định chế được ô tô chạy bằng pin mặt trời. Một bác nông dân ở Tây Ninh chế được máy bay trực thăng. Ngày nay, những sáng tạo như vậy ngày càng nhiều hơn. Những nhà phát minh sáng chế như thế học được kiến thức từ đâu? Chắc chắn là có một phần từ trường lớp họ đã qua. Nhưng phần kiến thức quan trọng nhất thì họ tự học được “từ trên mạng”. Kể từ khi ra đời cách đây mới vài chục năm, mạng internet toàn cầu có lẽ là cuộc cách mạng lớn nhất trong lịch sử. Không chỉ hỗ trợ đắc lực cho những đầu óc sáng tạo kỹ thuật như các em học sinh hay bác nông dân nói trên mà nó còn giúp cho hàng tỷ người trên trái đất tiếp cận tất cả những gì người ta quan tâm. Kiến thức – và từ đó là quyền lực - không còn là độc quyền của một nhóm nhỏ những người có “đặc quyền đặc lợi” từ nguồn gốc gia đình và tự cho mình là “elite” – tầng lớp cao nhất xã hội nữa.  Bây giờ ai cũng có thể trở thành nhà phát minh, làm phim, diễn viên điện ảnh, triết gia, nhà bình luận chính trị, nhà báo, nhiếp ảnh gia, người đấu tranh cho công lý, v.v. Đó chính là một phần quan trọng của dân chủ, tự do và bình đẳng: tự do học tập, hiểu biết và sáng tạo. Xưa kia ở những xã hội Ki Tô giáo phương tây, nhân dân được gọi là ‘con chiên”, nghĩa là “đàn cừu”, được dẫn dắt bởi các cha đạo – được gọi là “người chăn cừu.” Ở Á đông thì còn tệ hơn nữa: dân thường bị vua quan coi là “thảo dân” – nghĩa là “cỏ rác”, có thể bị chà đạp lên mà không cần một mảy may suy nghĩ. Tất cả những gì người dân được phép biết là qua nhà thờ và vua chúa, qua những kẻ thống trị với hệ thống kinh sách được coi là những chân lý “bất di bất dịch”. Ai nói gì khác là có thể bị coi là “tà đạo” và bị trừng trị thẳng tay. Nhưng thời nào cũng có những người dũng cảm,thông minh và có đầu óc tự do.  Họ thà bị chết thiêu trên dàn lửa, chịu tù “mọt gông”, chịu chết chém chứ không chấp nhận những điều phi lý. Nhưng những người như thế là vô cùng ít. Đa số thì vẫn là đàn cừu, ngoan ngoãn đi theo kẻ chăn cừu. Cho đến tận gần đây, một dân tộc thông minh và giỏi giang như người Đức mà vẫn bị một “kẻ chăn cừu” như Hitler dẫn dắt vào chỗ gây ra hủy diệt và chết chóc cho các dân tộc khác và cho chính mình. Một trong những lý do khiến Hitler làm được như vậy là vì có trong tay một bộ máy đàn áp và tuyên truyền khổng lồ. Khi người dân sợ hãi, bị “tẩy não” và không còn lựa chọn nào khả dĩ nữa, như hoàn cảnh của dân Đức khi đó thì họ buộc phải làm bất cứ điều gì dù là ngu ngốc hay dã man tàn bạo tới đâu. Nhưng xã hội ngày nay đã khác. Với trí tuệ sẵn có được trời đất ban cho và được tăng thêm sức mạnh to lớn do khả năng tiếp cận internet – nơi chứa đựng một khối lượng vô hạn những kiến thức loài người tích lũy được, dân chúng không còn là “đám người ngu muội và ngoan ngoãn” dễ dàng bị dắt mũi như xưa nữa. Khi hàng triệu người ý thức được quyền của mình, biết điều gì là phải là trái, là công bằng hay bất công, họ sẽ tự nhiên dần dần hành động theo suy nghĩ và niềm tin của mình.  Xã hội dường như đang chuyển động. Nó có thể là rất từ từ, thậm chí khó nhận ra được. Chuyển động đó vô cùng mạnh mẽ do được điều khiển bởi “những bàn tay vô hình” theo những quy luật tự nhiên mà không ai ngăn cản được. Đó là “Thiên Mệnh”, nếu theo cách nói của người xưa. Đó là một “dòng thác Cách Mạng” mới, nếu thích cách nói của các bậc tiền bối gần đây. Đó là một cuộc “cách mạng chậm”, nếu như cần đặt một thuật ngữ mới. Không ai còn có thể áp đặt những điều phi lý lên hàng triệu người đã và đang giác ngộ nữa. Nếu ý thức được và thuận theo ‘Mệnh Trời” này, xã hội sẽ tốt đẹp lên. Còn nếu cứ “khăng khăng” ép buộc cả xã hội hàng triệu con người theo ý riêng của mình – mà thường chỉ là sự dốt nát và ích kỷ, thuật ngữ của nhà Phật gọi là “vô minh” – thì việc đó cũng giống như là lấy bàn tay mình để che mặt trời. Khi trở thành vật cản thì sớm muộn sẽ bị dòng thác cuốn băng đi.  

Thứ Tư, 3 tháng 4, 2019

Chuyện Ucraina có gì liên quan?

Ở Ucraina đang diễn ra một sự kiện mà truyền thông trong nước ít quan tâm: Cuộc bầu cử tổng thống. Có lẽ là vì chuyện đó khá là xa vời với dân Việt, hầu như là không liên quan. Vòng một đã khép lại. Trong hai ứng viên lọt vào vòng 2 – vòng cuối cùng – thì một người là đương kim tổng thống. Có chuyện khá lạ là người thứ hai, người đang dẫn đầu vòng 1 với số phiếu vượt khá xa vị tổng thống là một người khá trẻ tuổi. Anh ta là một diễn viên hài, chưa hề có kinh nghiệm hoạt động chính trị nào. Hay nói đúng hơn, anh ta có một chút “kinh nghiệm” trong show diễn có tên là “Người đày tớ của nhân dân”, trong đó anh thủ vai tổng thống. Trong vai diễn này, vị “tổng thống” trăn trở một điều: Có thể làm tổng thống, làm lãnh đạo đất nước mà không “ăn cắp” không? Dường như điều này đã “gãi đúng chỗ ngứa” của dân Ucraina. Suốt 15 năm qua, kể từ “cách mạng cam” 2004, rồi cuộc bạo loạn euromaidan 2014 cho tới hôm nay, những gì người dân Ucraina phải chịu đựng là sự bất lực của chính quyền trong việc giải quyết các vấn đề hệ trọng của đất nước như cuộc chiến ở vùng Donbas, sự đói nghèo, nạn đấu đá tranh giành quyền lực, tham nhũng, tệ nạn xã hội, tội phạm tràn lan. Mức sống của dân Ucraina tụt xuống hàng thấp nhất châu Âu. Hàng triệu người phải rời bỏ đất nước đi kiếm sống ở nước ngoài. Người dân quá thất vọng với những chính trị gia chuyên nghiệp. Họ muốn thay đổi. Vì thế họ đã chọn một gương mặt có thể nói là “hoàn toàn mới” với hy vọng là sẽ cải thiện được tình hình tồi tệ ở Ucraina. Vòng 2 vẫn còn ở phía trước. Mọi chuyện vẫn đều có thể xảy ra. Cuối cùng thì nhân dân phải tự quyết định mình muốn gì, nắm vận mệnh của mình trong tay, phải tham gia việc thực hiện quyết định đó và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Không có phép mầu nào từ trên trời rơi xuống cả. Không có bữa tiệc nào được dọn sẵn để ta chỉ việc hưởng cả. Người Việt có câu “muốn ăn thì lăn vào bếp”. Không ai có thể làm thay ta. Đó là bài học đắt giá mà mấy chục triệu dân Ucraina đã học được sau 15 năm đi qua “con đường đau khổ” của mình. Bây giờ thì có vẻ như họ đang đi đúng hướng. Ucraina là một dân tộc lớn, tài năng, từng có trình độ phát triển cao trong Liên Xô cũ. Miễn là đi đúng đường – con đường tất cả các dân tộc dân chủ, thịnh vượng, tiên tiến, văn minh đã đi - sớm muộn dân tộc Ucraina cũng sẽ được như vậy.  Trở lại với hiện tượng “thờ ơ, bàng quan” của dân Việt, hay ít nhất là truyền thông với những sự kiện như thế, người ta không khỏi tự hỏi là tại sao? Dân Việt muốn gì? Những nhà thuộc loại “có điều kiện” – theo cách nói bình dân hiện nay nghĩa là có nhiều tiền – thì đa số đều chọn cho con cháu mình du học ở Tây Âu hay Bắc Mỹ. Nếu ở châu Á thì là Nhật Bản, Hàn Quốc hay Singapore. Nghe nói dân “có điều kiện” hiện nay hay hỏi nhau “Có quốc tịch chưa? Có thẻ xanh chưa? Có nhà bên ấy chưa? Họ nói đến việc chuẩn bị sẵn cho gia đình con cái và cả bản thân để khi thích/khi cần là sang định cư ở Bắc Mỹ hay Tây Âu.  Người “có nhiều tiền” hiện nay ở Việt Nam thường là quan chức nhà nước, thường là người ở những chức vụ cao, ở những vị trí công tác mà người dân và doanh nghiệp phải “cầu cạnh” để được giải quyết nhanh chóng và thuận lợi những việc liên quan đến cuộc sống và việc làm ăn của họ. Nhóm người có tiền thứ hai là các chủ các doanh nghiệp tư nhân hoặc các vị trí cao cấp ở các doanh nghiệp lớn. Con em nhà thường dân thì chỉ còn một cách là phải học giỏi để có thể xin được học bổng của nước ngoài. Đa số các em học xong thì chọn ở lại nước ngoài vì điều kiện làm việc và cuộc sống tốt hơn. Việc phổ biến ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh và internet làm cho việc tiếp cận những kiến thức, ý tưởng mới, hiện đại ở các nước phát triển và tiên tiến dễ dàng hơn. Kể cả khi không biết ngoại ngữ thì việc tiếp cận kiến thức mới về mọi mặt như kinh tế, chính trị, quản lý nhà nước, v.v. cũng không còn khó khăn vì nhiều tác phẩm “kinh điển” về kinh tế thị trường, chính trị, luật pháp, v.v. đều có bản dịch và phổ biến miễn phí bằng dạng sách điện tử trên mạng internet. Với kinh tế khá lên, hàng triệu người Việt đi du lịch nước ngoài hàng năm và tận mắt thấy những gì đang diễn ra ở đó. Như vậy, dù ai muốn nói gì thì nói, trong tư tưởng, trong suy nghĩ, tất cả mọi người đều hướng về các nước giàu có, văn minh, tiên tiến. Những nước có một đặc điểm chung là có hệ thống dân chủ. Đó là lẽ tự nhiên bởi ai cũng muốn thế cả. Và người ta sẽ dần dần nhận ra cái gì đang cản trở đất nước trên con đường trở nên có thể “sánh vai với các cường quốc năm châu”, như ước vọng của Cụ Hồ, người sáng lập nước Việt Nam hiện đại. Cái đích mà Việt Nam nên tiến tới thực ra từng đã được đặt ra vào năm 1945, khi Cụ Hồ đặt tên nước là Việt Nam – Dân Chủ - Cộng Hòa. Cái mà dân Ucraina, dân Việt Nam, hay dân ở đâu cũng vậy đều mong muốn là được Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc theo đúng nghĩa của những từ ngữ này. Điều đang xảy ra ở Ucraina là một ví dụ sinh động cho thấy cách mà một nền dân chủ vận hành. Do đó câu chuyện của Ucraina là rất đáng để ý.


Thứ Tư, 6 tháng 3, 2019

Chuyện “nóng” và “nguội”

Vừa rồi, trong khi truyền thông trong nước và cả thế giới tập trung vào một chủ đề có lẽ là “nóng” nhất trong nhiều năm – cuộc gặp Trump – Kim tại Hà Nội để xử lý vấn đề hạt nhân của Bắc Hàn  và hòa bình trên bán đảo Triều Tiên thì một số tờ báo loại “lá cải” ở VN lại có vẻ “lạc đề” khi khá chăm chú vào một vụ “xì căng đan” liên quan đến việc ly hôn của ông “vua cà phê” Việt Nam và bà vợ ông ta – có lẽ cũng “không phải là dạng vừa” – tạm gọi là “nữ hoàng cà phê” VN. Một cặp đôi nổi tiếng và giàu có như thế thì chuyện ly hôn hẳn là  không hề đơn giản. Vụ này loại VIP nên quan tòa và luật sư cũng phải là loại đẳng cấp rồi. Vậy mà việc xét xử có vẻ vẫn rất khó khăn. Nói như người phương tây, loại chuyện “he said – she said” – đại ý là “anh ta nói thế này, chị ta nói thế kia” thì đến tòa và luật sư cũng  khó mà lần ra manh mối ai phải, ai trái. Cho nên ta cũng chả nên bàn chi tiết làm gì. Nhưng cái chi tiết mà có lẽ ai cũng nhận ra là cái vẻ mặt đau khổ của vị vua này tại phiên tòa. Vẻ mặt này nếu có ai nghiên cứu về tâm trạng con người thể hiện qua khuôn mặt thì đây có lẽ là ví dụ tốt cho “vẻ mặt đau khổ”. Nhiều người hẳn sẽ thắc mắc là tại sao lại thế? Họ là loại siêu giàu, có  tài sản thì không biết bao nhiêu ngàn tỷ mà theo lời ông ta mới chỉ là “bề nổi” thôi. Lối sống thì “vương giả quý tộc” với cả đàn ngựa quý và cả dàn “siêu xe”. Bạn bảo là vì họ không có tình yêu? Khi người ta có với nhau đến 4 đứa con thì hẳn người ta đã từng yêu nhau lắm chứ? Có lẽ họ không học triết lý sống, không “tu”? Cũng lại nghe nói ông ta rất quan tâm đến lĩnh vực này, có vẻ từng đọc rất nhiều sách vở. Hơn nữa, cũng nghe nói ông ta đi “tu” mấy năm nay. Với tiền bạc nhiều như thế và cái “gu” cao như thế thì cái chỗ để ngồi tĩnh tâm và thiền phải là chỗ “đỉnh” nhất rồi. Theo “lý thuyết nhà Phật” thì tu là để buông bỏ mọi thứ, nhất là cái tâm dính mắc “tham, sân, si” và khi người ta đã buông bỏ được hết rồi thì “niết bàn” sẽ hiện ra. Đó là một trạng thái tinh thần tĩnh lặng, thư thái, tràn đầy và hạnh phúc nhất. Có lẽ lúc đó vẻ mặt của người ta cũng sẽ phần nào như Phật vậy. Nhưng vẻ mặt của vi vua cà phê tại tòa thì quả là một thái cực khác. Có thể gọi đó là “địa ngục” hay là cái gì đó đại loại như thế. Thế mới thấy “tu” là khó. Tu là phải nhận ra và buông bỏ dần cho đến hết sự “tham, sân, si”. Ở vào thời “kinh tế thị trường” ngày nay, khi mà đồng tiền lên ngôi cao nhất, trở thành lẽ sống, “là Tiên là Phật”, thời “có tiền mua tiên cũng được” mà lại đi nói chuyện “buông bỏ” thì có “lạc đề” không? Không nói thì người ta bảo sao chuyện quan trọng thế mà không nói? Nói thì người ta lại bảo “biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”. Ngẫm cho kỹ thì chuyện Bắc Hàn là chuyện nhất thời. Chiến tranh Việt Nam từng là chủ đề “nóng” trên truyền thông Mỹ và quốc tế suốt cả chục năm. Khi chiến tranh chấm dứt thì chủ đề “Việt Nam” cũng nguội dần. Tương tự như thế, hòa bình ở Triều Tiên rồi sẽ lập lại, hai miền rồi sẽ thống nhất và mọi chuyện sẽ thành bình thường, sẽ “nguội”. Nhưng chuyện “tham, sân, si” của con người – mà câu chuyện của cặp đôi vua cà phê này chỉ là một ví dụ nữa - là chuyện muôn thuở, không lúc nào quá “nóng” mà cũng chưa bao giờ “nguội” cả. 

Thứ Tư, 27 tháng 2, 2019

Một cơ hội lịch sử?


Ở Hà Nội đang có một trong rất ít sự kiện lôi cuốn sự chú ý của truyền thông toàn thế giới. Đó là cuộc gặp của TT Mỹ Trump và lãnh tụ Bắc Triều Tiên Kim Jong Un. Câu hỏi là tại sao lại VN, tại sao HN? Cả Mỹ lẫn BTT đều có những lý do riêng để đến HN. Mỹ thì có vẻ như muốn khuyến khích BTT đi theo con đường của VN, một nước từng trải qua một cuộc chiến ác liệt, đẫm máu với Mỹ và các đồng minh của Mỹ như Nam Hàn, từng bị cấm vận, cô lập, kiệt quệ, đói khổ cùng cực cho đến tận cuối những năm 90, từng bị các nước anh em cùng phe XHCN bỏ mặc, từng bị người “đồng chí” phương bắc phản bội và xâm lược tàn bạo. Vậy mà VN đã vượt qua tất cả những khó khăn ghê gớm đó, trở thành một nước khá phồn vinh về kinh tế, đời sống của đa số dân chúng được cải thiện đáng kể, có quan hệ quốc tế tương đối tốt kể cả với BTT và Hàn Quốc, Mỹ và TQ, trong khi vẫn duy trì một hệ thống chính trị gần tương tự như BTT. BTT thì dường như muốn tìm kiếm một lối thoát khỏi tình trạng hiện tại không mấy dễ chịu. Với một nền kinh tế đóng kín và có lẽ rất yếu, đại đa số nhân dân bị đói khổ và không có những tự do tối thiểu, bị Mỹ và đồng minh cô lập và cấm vận hàng chục năm qua – đã từng phải nhận “gạo cứu đói’ của VN – lại phải duy trì một quân đội khổng lồ và một chương trình hạt nhân tên lửa vô cùng tốn kém để đối đầu với một Hàn Quốc hùng mạnh cả về kinh tế lẫn quân sự, đã thế lại còn được che chở bởi “chiếc ô hạt nhân” của Mỹ. Lãnh đạo BTT hẳn có lẽ đã nhận thấy rằng họ khó mà tồn tại bền vững về lâu về dài. Mặt khác thì có lẽ Mỹ cũng nhận thấy không nên tiếp tục ép BTT nữa. Nói nôm na theo kiểu người Việt là “thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ nhì sợ kẻ cố cùng liều thân”. Mới đây thôi thì BTT đã hành xử gần như là một kẻ như vậy. Họ dọa “xóa sổ” nước Mỹ bằng vũ khí hạt nhân. Không ai dám chắc rằng BTT không dám làm như vậy khi trong tay họ đã có – hoặc gần có - tên lửa hạt nhân đủ mạnh để phóng đến Mỹ. Hàn Quốc giàu mạnh là vậy nhưng vẫn thấp thỏm sống trong tầm bắn của hàng ngàn khẩu pháo tầm xa của BTT mà khi phát hỏa sẽ biến Seoul thành tro bụi. Bởi vậy nếu BTT thoát khỏi tình trạng hiện tại thì sẽ có lợi không chỉ cho BTT và Mỹ, mà còn cho cả Hàn Quốc, Nhật Bản. Cả TQ và Nga thì không khó để nhận ra một hậu quả dễ thấy mà họ phải hứng chịu bởi một cuộc chiến Triều Tiên mới: hàng vạn, thậm chí hàng triệu dân tỵ nạn BTT. Nhưng có một điều kiện tiên quyết BTT phải thỏa mãn: từ bỏ vũ khí hạt nhân! Đó quả là một việc cực kỳ khó chấp nhận với lạnh tụ Kim. Khi không có vũ khí hạt nhân trong tay, ông ta chả còn gì để “mặc cả” với Mỹ nữa. Ông ta hẳn là phải biết câu chuyện của Ucraina. Khi LX tan rã vào năm 1991, Ucraina có trong tay cả một kho vũ khí hạt nhân còn lớn hơn của cả Anh Pháp cộng lại. Nhưng sau đó, phương Tây và Nga đã “dỗ dành” Ucraina từ bỏ vũ khí hạt nhân để đổi lấy các lợi ích kinh tế cộng với sự “bảo đảm” an ninh của Nga. Tất cả vũ khí hạt nhân của Ucraina sau đó được chuyển sang Nga. Mọi việc có vẻ ổn cho đến năm 2004 khi mà ở Ucraina xảy ra “cách mạng cam” để thoát Nga và vào EU-NATO. Từ đó, Ucraina đối đầu với một nước Nga khổng lồ trong một thế yếu. Đã thế, phương Tây lại có vẻ không vội vã gì trong việc cho Ucraina tham gia câu lạc bộ của họ. Đây chính là lúc vị lãnh tụ trẻ Kim có những quyết đinh “sống còn” cho đất nước và nhân dân mình. Mặc dù có rủi ro không nhỏ, nhưng nếu từ bỏ vũ khí hạt nhân, BTT may ra có thể thoát khỏi bế tắc hiện tại. Nếu một phép màu xảy ra, hai miền Bắc-Nam có thể thống nhất và trở thành một cường quốc như Nhật Bản trong một tương lai không xa. Nhưng điều đó sẽ có thể là rủi ro lớn cho triều đại họ Kim: Lúc đó Ô Kim trẻ có thể sẽ không còn trị vì được BTT như cách gia tộc nhà ông vẫn làm trong nhiều thập niên qua. Đó là điều ông ta có thể mất. Nhưng ông sẽ được một điều lớn hơn: ghi danh mình vào lịch sử bán đảo Triều Tiên và thế giới như là một người có công lớn bằng việc hy sinh quyền lợi của gia tộc và cá nhân mình vì hòa bình và hạnh phúc của nhân dân hai miền trên bán đảo Triều Tiên, cả vùng Đông Bắc Á và có thể cả TG nữa. Nói như thế có lẽ cũng không quá bởi khi chiến tranh hạt nhân nổ ra , không ai biết loài người có còn tồn tại nữa hay không. Tối nay hai ông Trump và Kim sẽ gặp nhau ở ks lịch sử Metropole Hà Nội. Đó là nơi ngôi sao điện ảnh Mỹ Jane Fonda từng lưu trú trong chuyến đi phản đối cuộc chiến của Mỹ ở VN, nơi ca sỹ đồng quê Joan Baez đã hát dưới mưa bom Mỹ, nơi Graham Green đã viết tiểu thuyết The Quite American đầu những năm 50, nơi Charlie Chaplin đã ở khi đi trăng mật năm 1936. Có lẽ Việt Nam, Hà Nội, ks Metropole sẽ có thêm một dòng đáng nhớ trong lịch sử. Nhưng tất cả còn ở phía trước trong hai ngày tới. Cũng có thể ngay tối nay. Có lẽ - hy vọng là thế - cả hai vị khách đặc biệt của nhà hàng Metropole tối nay đã nhận ra điều đó?